TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 91 CN 24.06.2007

 

 

Web site : www.tinvui.org

E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

Mục lục

 

 

 Chúa Nhật XII Thường Niên C..

LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ 24.06.2007.

NHỮNG CÚ NHẢY HOAN CA TÌNH THƯƠNG..

Đức Thánh Cha hành hương Assisi

BỐN MƯƠI NĂM THÔNG ĐIỆP SACERDOTALIS CAELIBATUS.

LỄ PHONG CHỨC LINH MỤC TẠI GIÁO PHẬN BÙI CHU..

LỄ CUNG HIẾN VÀ KHÁNH THÀNH..

THÁNH ĐƯỜNG GIÁO XỨ TÙNG LÂM, ĐÀ LẠT..

“HÃY ĐẾN VÀ THEO THẦY”.

CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH GIOAN BAOTIXITA..

PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ HAI VỊ THÁNH CỦA TINH THẦN HIỆP NHẤT..

CON ĐƯỜNG THOÁT ÁCH TỘI LỖI. P

Giáo Hội với hình ảnh cái rìu, cái nia và cái quốc.

THỜI WTO, ĐE DỌA HAY CƠ MAY CỦA ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN..

TIỀN KHÔNG TÂM –TIỀN TANH..

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC..

THÁNH LỄ..

KHI RA KHỎI CUỘC ĐỜI NÀY, LINH HỒN CỦA NHỮNG NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA ĐI VỀ ĐÂU ?  P

CHIẾC CẦU..

LIÊN HỆ CHA MẸ & CON CÁI  “CÓ NUÔI CON MỚI BIẾT LÒNG CHA MẸ”.

Cao nguyên có gì lạ.

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật XII Thường Niên C

LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ

24.06.2007

 

NHỮNG CÚ NHẢY HOAN CA TÌNH THƯƠNG

 

Lc 1, 57-66. 80

"Nó sẽ gọi tên là Gioan".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là

Gioan". Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan". Và mọi người đều bỡ ngỡ.

Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó". Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. Đó là lời Chúa.

 

 

Vai trò của thánh Gioan Baotixita là dọn tâm hồn dân chúng chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế. Vì thế, nội dung của sứ mạng mà thánh Gioan lãnh nhận gần giống Chúa Kitô: Kêu gọi mọi người nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sám hối. Chính thánh Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang địa. Qua đó, thánh nhân muốn nhấn mạnh rằng, hoang địa là tâm hồn con người còn thiếu vắng Thiên Chúa. Lời kêu gọi sám hối là tiếng kêu trong hoang địa đòi con người phải cải tạo hoang địa lòng mình cho phù hợp với ơn cứu độ đang đến. Là tiếng kêu dọn đường cho Chúa để Chúa thể hiện tình thương đối với nhân loại, Chúa đã biến cuộc đời thánh Gioan, kể từ lúc thành thai đến khi qua đời, là cả một chuỗi những biến cố lạ thường, thể hiện huyền nhiệm Tình Thương của Chúa, một Tình Thương bền bỉ gắn chặt với vận mệnh của mỗi con người, một Tình Thương đã biến con người chỉ là thụ tạo, trở thành quà tặng mà Thiên Chúa tự dành cho mình. 

Suy niệm Tin Mừng liên quan đến ngày lễ Sinh Nhật thánh Gioan Baotixita (Lc 1, 5-58), tôi nhận ra một sự tương đồng hết sức lớn lao với một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước kể lại việc vua Đavid cung nghinh và nhảy múa trước Hòm Bia giao ước, để tỏ lòng thần phục, kính thờ Thiên Chúa (2Sm 6, 9-15). Cuộc hạ sinh thánh Gioan và ơn gọi mà thánh Gioan nhận lãnh đã nhiều lần được Cựu Ước báo trước. 2Sm 6, 9-15 là một trong những bản văn Cựu Ước cho thấy hình bóng về ý nghĩa lớn lao bên trong cuộc hạ sinh này. Ý nghĩa đó chính là Tình Thương của Chúa vẫn không ngừng hiện diện giữa dân Chúa.

Đúng hơn, khi ghi lại trình thuật về việc hạ sinh của thánh Gioan Baotixita, thánh Luca như cố tình cho thấy sự gần gũi, sự tương đồng giữa Cựu và Tân Ước. Với trình thuật về cuộc hạ sinh của thánh Gioan, thánh Luca như muốn nói rằng, con người và ơn gọi của Gioan Baotixita không chỉ là giao thời giữa Cựu và Tân Ước, mà còn là và nhất là: Gioan Baotixita một khi có mặt trong Tân Ước, đã bước ra từ Cựu Ước. Trong đó, cuộc hạ sinh của con người đầy nhiệm lạ này, không chỉ nói lên tình thương của Chúa dành cho riêng cá nhân thánh Gioan, mà còn cho thấy, cuộc hạ sinh và chính con người của thánh Gioan càng nhiệm lạ bao nhiêu, thì Tình Thương của Chúa vốn bền bỉ hiện diện giữa dân Chúa càng diệu kỳ, càng lớn lao bấy nhiêu, lớn không cùng.

Sách Samuel quyển II cho biết: “Vua Đavid nói: ‘Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?’. Vua Đavid không muốn đưa Hòm Bia Đức Chúa về với mình trong thành vua Đavid, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ôvết Êđôm…Hòm Bia Đức Chúa ở nhà Ôvết Êđôm, người thành Gát ba tháng…Ông Đavid liền đi rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ôvết Êđôm lên thành vua Đavid trong niềm hân hoan. Khi những người khiêngHòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đavid quấn êphốt  vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa. Vua Đavid và toàn thể nhà Israel rước Hòm Bia Đức Chúa lên giữa tiếng hò reo và tiếng tù và…” (2Sm 6, 9-15).

- Hòm chứa hai tấm Bia giao ước là hình ảnh báo trước Đức Maria mang Chúa Giêsu trong lòng dạ mình.

- Lần đầu tiên, Hòm chứa Bia giao ước long trọng vào thành của Đavid. Đức Maria mang thai Chúa đi đến nhà bà Isave. Lần đầu tiên, kể từ khi Chúa nhập thể làm người, Hòm Bia giao ước mới là chính Đức Maria và chính Chúa Giêsu đã viếng thăm một gia đình thánh thiện.

- Đavid và dân chúng đã vui mừng khi cung nghinh hòm bia. Bà Isave và người con mà bà đang cưu mang cũng vui mừng trước Đức Maria.

- Chính Đavid đã nhảy nhót để diễn tả niềm vui được Hòm Bia viếng thăm. Gioan Baotixita cũng nhảy mừng trong lòng mẹ, khi gặp gỡ Đức Maria, người Mẹ của Thiên Chúa đang mang Thiên Chúa trong lòng dạ.

- Dân Israel đã “hò reo” trong khi rước Hòm Bia. Cũng vậy, bà Isave “kêu lớn tiếng”.

- Cũng như Hòm Bia ở nhà ông Ôvết Êđôm trong ba tháng, Đức Maria cũng lưu lại nhà ông Giacaria và bà Isave trong ba tháng.

- Câu nói của bà Isave: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”, phải chăng cũng là họa lại lời Đavid: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được”.

Thánh Luca đã tài tình khi lồng ghép hình ảnh của Cựu Ước vào Tân Ước. Sự gặp gỡ thiết thân hết sức của Cựu và Tân Ước, đã cho thấy lịch sử cứu độ, lịch sử mà nơi đó hành động Tình Thương của Thiên Chúa vẫn chảy mãi, chảy mãi chẳng những chưa từng “nghẻn mạch”, chưa từng “tạm nghỉ” một chút nào, mà còn tiếp tục chảy đến vô cùng, chảy không ngừng.

Hóa ra, thánh Luca cố tình làm tương đồng giữa câu chuyện sinh hạ của Gioan Baotixita với câu chuyện cung nghinh Hòm Bia của Đavid, không chỉ làm nổi lên tính so sánh như một thể loại văn chương. Nhưng ẩn sâu trong dụng ý của thánh Luca, câu chuyện hạ sinh ấy là một bài trường ca về một Tình Thương có một không hai trong lịch sử loài người. Một bài trường ca bất tận. Một Tình Thương nhiệm lạ gắn chặt Thiên Chúa với loài người không ngơi nghỉ. Tình Thương quá đỗi ấy đã làm thành một dòng lịch sử nâng cao thân phận trần thế của loài thụ tạo mỏng dòn, phải chết trở thành con Thiên Chúa. Tình Thương ấy không còn là hình bóng, nhưng đã hiện thực. Thay vì vật thể, thì nay là một Con Người. Thay vì Bia giao ước thì nay là chính Chúa Trời làm người. Như vậy, Tình Thương chảy từ Cựu Ước, càng chảy càng phát triển. Sang Tân Ước, Tình Thương ấy phát triển đến không ngờ. Bởi ơn cứu độ của lời hứa khi xưa, nay đã là chính Đấng Cứu Độ toàn năng.

Suy nghĩ như thế, ta càng khám phá ra rằng, khi miêu tả từng chi tiết câu chuyện hạ sinh của thánh Gioan Baotixita, thánh Luca đã hoan hỷ đặt tất cả nội tâm của mình sống trong đó. Vì thế, thái độ vui mừng của gia đình Giacaria – Isave vì được Chúa Trời buổi đầu làm người viếng thăn cũng là niềm mừng vui khôn tả của Luca. Bởi hôm nay, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Cú nhảy của thánh Gioan trong lòng bà Isave cũng là cú nhảy của Luca. Bởi hôm nay, dân Chúa cũng được hân hoan nhảy mừng vì sức sống mới, sức sống vĩnh cửu trong ơn cứu chuộc. Tiếng kêu trong ơn Chúa Thánh Thần vừa thản thốt, vừa lạ thường, vừa vui sướng của bà Isave cũng là tiếng kêu trong Thánh Thần của Luca. Bởi hôm nay dân Chúa đã được xức dầu Thánh Thần để cất mãi bài hoan ca chúc tụng Thiên Chúa. Lời ca tụng Thiên Chúa sẽ trung thành thực hiện những gì Người đã phán (Lc 1, 45) xuất trên môi bà Isave cũng chính là tiếng kêu bật thốt của Luca. Bởi hôm nay tất cả những gì Chúa hứa đã nên hiện thực và hoàn hảo… Thánh Luca đã khám phá và nói với chúng ta nơi từng con chữ trong trình thuật hạ sinh của thánh Gioan về một Tình Thương bền bỉ có một không hai, Thiên Chúa đã không ngừng trung thành dành cho trần thế.

Nói cách khác, nơi trình thuật hạ sinh của thánh Gioan đặt trong tương quan với trình thuật Cựu Ước, ta thấy được Tình Thương của Chúa là một Tình Thương vượt mọi thác ghềnh, vượt trên tội lỗi của loài người. Tình Thương ấy đã dàn trải trong Cựu Ước thì nay lại cứ lớn mênh mông nơi Tân Ước. Cứ mãi vươn tới, vươn tới, bền bỉ gắn chặt với vận mệnh của trần thế, để trần thế dù vong thân đến đâu, vẫn còn đó một điểm tựa vững chắc mà quay về. Bởi thế, thái độ vui mừng, hay cú nhảy, hay tiếng kêu sung sướng trong Thánh Thần, hay lời ca tụng Thiên Chúa trung thành với lời hứa… nơi trình thuật hạ sinh của thánh Gioan, cũng là của chính nội tâm thánh Luca, lại chính là sự diễn tả trung thực nỗi vui mừng của mỗi chúng ta, của Hội Thánh hôm nay, vì được tận hưởng một Tình Thương bền bỉ mà Thiên Chúa đã thực hiện mỗi lúc một lên cao từ hình bóng đến hiện thực, từ vật thể đến Con Người, từ bia đá đến chính Con Thiên Chúa.

Tình Thương của Chúa là ân huệ lớn lao cho trần gian. Dân Chúa xưa trong Cựu Ước đã vui mừng đón nhận Tình Thương ấy. Đức Mẹ đã trân trọng đón nhận Tình Thương mà Chúa đặc biệt dành cho Mẹ. Gia đình ông bà Giacaria – Isave đã sung sướng vì Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita chấp nhận sứ vụ của Tình Thương nhiệm lạ trở thành người Tiền Hô Đấng Cứu Thế. Thánh Luca bày tỏ lời sung sướng của nội tâm vì nhận ra Tình Thương của Chúa luôn trải dài và bền bỉ. Ngày nay, tất cả chúng ta hãy đắm mình trong Tình Thương của Chúa bằng đời sống chăm chỉ cầu nguyện như thánh Gioan kết hợp với Chúa bằng con đường sa mạc nội tâm. Ta hãy thanh luyện tâm hồn thường xuyên để xứng đáng với Tình Thương. Ta hãy làm trọn sứ vụ dọn đường cho Tình Thương của Chúa đi vào nẻo đường nhân loại bằng chính đời sống chứng tá của ta. Rất nhiều phương thế để chúng ta đắm mình trong Tình Thương của Chúa. Mỗi người chúng ta đều cần lắm sự đắm mình trong Tình Thương của Chúa, để mãi mãi Tình Thương ấy dìu đưa ta trên hành trình cuộc đời. Cuối hành trình ấy, lại chính nhờ Tình Thương, chúng ta tiến về cùng Chúa trong bình an.

Vua Đavid đã nhảy mừng. Thánh Gioan Baotixita cũng nhảy mừng. Những cú nhảy của tình yêu đáp trả Tình Yêu. Ngày nay, ta đắm mình trong Tình Thương của Chúa, cũng có nghĩa là ta nhảy mừng đón nhận Tình Thương Chúa dành cho ta. Những cú nhảy như thế rất cần để ta càng ngày càng đi về phía Chúa, càng trở nên một với Chúa. Đó là  những cú nhảy đón nhận và sống với Tình Thương của Chúa. Tất cả đều là những cú nhảy hoan ca Tình Thương.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Đức Thánh Cha hành hương Assisi

 

Hôm Chúa Nhật 17/6/2007, Đức Thánh Cha đã đến viếng thăm thành phố Assisi, quê hương của thánh Phanxicô, nhân dịp kỷ niệm 800 năm biến cố cải hoán của vị thánh khó nghèo. Phanxicô sinh khoảng năm 1181/82. Sau một thời gian chạy theo công danh, anh đã được ơn gọi đổi đời: anh đã gia tài chấp nhận nếp sống thanh bần, đi phục vụ người phong hủi, và nhất là vào năm 1206, anh nhận được tiếng nói từ thập giá thúc đẩy anh đi sửa sang nhà Chúa. Lúc đầu anh tưởng là Chúa muốn cho mình sửa chữa nhà thờ San Damiano, nhưng dần dần anh nhận ra một sứ mạng cao cả hơn, đó là sửa sang Giáo hội bằng việc trở về với nếp sống Phúc âm. Đức Bênêđictô XVI đã rời Vatican lúc 7 giờ rưỡi sáng bằng máy bay trực thăng, và 50 phút sau đã đến Assisi. Ngài đã viếng thăm những địa điểm quan trọng gắn liền với cuộc đời của thánh Phanxicô. Ý nghĩa của cuộc viếng thăm này đã được tóm lại trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin, kết thúc Thánh Lễ cử hành tại mặt tiền đền thờ kính thánh nhân:

Anh chị em thân mến,

Cách đây 8 thế kỷ, thành phố Assisi khó lòng tưởng tượng được vai trò mà Chúa Quan phòng dành cho mình, một vai trò biến nó trở nên lừng danh trên thế giới, một “nơi của linh hồn”. Đặc tính này đã được ghi dấu bởi một biến cố xảy ra tại đây và đã để lại dấu ấn không thể xoá nhoà. Tôi muốn nói đến cuộc hoán cải của anh Phanxicô, sau 25 năm sống đời tầm thường và mơ mộng, chạy theo những thú vui và thành công của thế gian, đã mở lòng ra cho ân sủng, quay về với chính mình và dần dần khám phá lý tưởng cuộc đời mình ở nơi Chúa Kitô. Cuộc hành hương của tôi hôm nay về Assisi muốn ôn lại biến cố đó để làm sống lại ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.

Với niềm xúc động, tôi đã dừng chân lại ở nhà thờ San Damiano, nơi mà thánh Phanxicô nghe thấy tiếng nói từ cây Thập giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại nhà của ta” (2 Cel. I,6, 10: FF 593). Đó là một sứ mạng mở đầu cho cuộc hoán cải trong tâm hồn anh, để trở nên men Phúc âm được thả tung vào Hội thánh và xã hội. Tại Rivotorto tôi đã thấy địa điểm mà theo lưu truyền, anh Phanxicô đã đến gần các người phong hủi với tâm tình lân tuất, như mở đầu cho cuộc đời thống hối, cũng như thánh điện đánh dấu căn nhà thanh bần của anh cùng với các đồng bạn tiên khởi. Tôi đã đến thăm thánh điện thánh Clara, “cây nhỏ” của Phanxicô, và chiều nay, sau khi viếng thăm nhà thờ chánh toà Assisi, tôi sẽ đến đền Porziuncula, nơi mà, dưới bóng của Đức Mẹ, thánh nhân hướng dẫn những bước đầu của huynh đoàn trên đường phát triển, và trút hơi thở cuối cùng. Ở đó, tôi sẽ gặp gỡ các bạn trẻ, để cho anh Phanxicô, một người trẻ đã trở về với Chúa Kitô, ngỏ lời tâm tình với họ.

Giờ đây, tại vương cung thánh đường San Francesco, nơi giữ hài cốt của thánh nhân, tôi muốn lấy lại những lời chúc tụng của người: “Ôi, lạy Chúa là Đấng Tối cao, Toàn năng, tốt lành, xin ngợi khen, vinh danh và chúc tụng Chúa” (Bài ca Mặt Trời 1: FF 263). Phanxicô Assisi là một bậc thầy dạy chúng ta về đức tin và chúc tụng. Là con người mê say Chúa Giêsu, anh ta đã gặp khuôn mặt của Thiên Chúa Tình yêu, trở thành người du ca của Chúa. Dưới ánh sáng của các chân phúc Tin mừng, anh ta đã hiểu được sự hiền hoà khi giao tiếp với người khác, đến với mọi người trong tư cách khiêm tốn, chứng tỏ là một kẻ kiến tạo hòan bình.

Từ châu thành này của hoà bình, tôi muốn gửi lời chào đến các nhà lãnh đạo các Giáo hội Kitô và các tôn giáo đã đón nhận lời mời của vị tiền nhiệm của tôi để tới đây, quê hương của thánh Phanxicô Assisi, hồi năm 1986 để sống một ngày Thế giới cầu nguyện cho Hoà bình. Từ nơi này tôi cảm thấy bổn phận dóng lên lời khẩn khoản yêu cầu hãy chấm dứt các cuộc xung đột võ trang đang nhuốm máu điạ cầu, xin hãy im tiếng súng đạn, và xin cho nơi nơi hận thù nhường chỗ cho yêu thương, căm phẫn nhường chỗ cho tha thứ, chia rẽ nhường chỗ cho đoàn kết. Chúng tôi thấy hiện diện trong tinh thần tất cả những ai đang than khóc, đau đớn và chết vì chiến tranh và những hậu quả tang thương của nó ở hết mọi miền trên mặt đất. Chúng ta nghĩ đến cách riêng Đất thánh, mà Phanxicô yêu mến cách riêng, nước Irak, Liban, và toàn vùng Trung đông. Nhân dân trong vùng này đã nếm các cảnh kinh hoàng của những cuộc giao tranh, khủng bố, bạo lực mù quáng, ảo tưởng có thể dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp, sự khước từ không chịu nghe lý lẽ của đối phương, Duy chỉ một cuộc đối thoại có trách nhiệm và chân thành, được Cộng đoàn quốc tế nâng đỡ cách quảng đại, mới có thể chấm dứt những nỗi đau khổ ấy, và mang lại sức sống và phẩm giá cho các cá nhân, thể chế và dân tộc.

Mong sao cho thánh Phanxicô, con người hoà bình, cầu xin Thiên Chúa ban cho được nhiều người tình nguyện trở nên những “khí cụ hoà bình”, qua trăm ngàn cử chỉ nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày; mong sao cho những ai đang đảm nhận vai trò lãnh đạo được nuôi dưỡng bởi lòng say mê hoà bình và ý chí cương quyết để đạt tới nó, tìm những phương thế thích hợp để thực hiện nó. Xin Đức Trinh nữ Maria, Đấng mà Phanxicô yêu mến nồng nàn và ca ngợi say đắm, giúp chúng ta khám phá bí quyết hoà bình trong phép lạ tình yêu được thực hiện trong cuung lòng của Mẹ do sự nhập thể của Ngôi Lời.

Qua bài huấn dụ vừa rồi, chúng ta đã theo dõi được một phần nào chuyến viếng thăm của đức Bênêđictô XVI vào ngày hôm qua. Trước tiên, ngài đã đến viếng thăm Rivotorto, nơi mà Phanxicô đã đến phục vụ những người phong hủi, sau đó là nhà thờ San Damiano, nơi mà anh đã nhận được tiếng gọi từ cây thánh giá, hiện đang lưu giữ tại đan viện thánh Clara. Rồi ngài cử hành thánh lễ trọng thể, với 3 hồng y, 31 giám mục và 130 linh mục đồng tế. Trong bài giảng, dựa theo bài đọc Sách Thánh, ngài đã giải thích ý nghĩa của cuộc cải hoán của thánh Phanxicô, dựa trên ba mẫu gương cải hoán của vua Đavit, của thánh Phaolô và   của người phụ nữ.

Phanxicô không phạm tội nặng nề như vua Đavit. Tuy nhiên, trong bản chúc thư, thánh nhân thú nhận rằng trước đây mình chỉ biết lấy cái tôi làm trung tâm. Cuộc cải hoán được diễn tả qua việc tiếp xúc với những người phong hủi, nhìn nhận họ như là hình ảnh của Chúa Kitô. Mẫu gương thứ hai của cuộc cải hoán là thánh Phaolô. Phanxicô hoạ lại cuộc đời thánh Phaolô ở chỗ mang trong mình những thương tích của thập giá Chúa Kitô: tôi sống nhưng không còn là tôi nữa, nhưng là Chúa Kitô trong tôi. Sau cùng, từ tấm gương của người phụ nữ đã yêu nhiều vì được tha thứ nhiều, chúng ta có thể nhận thấy nơi thánh Phanxicô như con người say mê Chúa Kitô, yêu mến Chúa đến nỗi muốn hoạ lại cuộc đời của Chúa, không chỉ qua những quang cảnh của hang đá máng cỏ, nhưng sống trọn lý tưởng của Phúc âm, lý tưởng của các mối phúc thật. Như đã được nhắc lại trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin, Đức Thánh Cha nêu bật mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa Giêsu và sự kiến tạo hoà bình. Khi đã sống sâu đậm đức tin của mình, ta không sợ sệt khi gặp gỡ đối thoại với các tôn giáo khác. Tôn giáo phải là động lực của yêu thương hoà bình, chứ không thể nào là chiêu bài cho chiến tranh.

Vào buổi chiều Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với các giáo sĩ, tu sĩ, và các bạn trẻ

Bình Hòa

 

BỐN MƯƠI NĂM THÔNG ĐIỆP SACERDOTALIS CAELIBATUS

 

Khi mới lên nắm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo Sĩ vào cuối tháng Mười Hai năm ngoái, Đức Hồng Y Claudio Hummes đã viết một tài liệu mạnh mẽ khẳng định và bảo vệ sự độc thân linh mục. Bài viết dài khoảng bốn trang, được phổ biến vào ngày 14 tháng Hai trên tờ Osservatore Romano có tựa đề “Tầm quan trọng của sự độc thân linh mục”. Tài liệu vừa tái khẳng định nội dung của Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus (Độc Thân Linh Mục ), 24 tháng Sáu, 1967 của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vừa nhằm kỉ niệm bốn mươi năm ngày ban hành Thông điệp này .

 

Nhân dịp này chúng ta cùng ôn lại những điểm chính của Thông điêp.

 

Công Đồng Vatican II trong Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis đã khẳng định truyền thống độc thân linh mục của Giáo Hội Tây Phương (x. PO, 16). Dựa trên văn kiện này, Đức Phaolô VI đã triển khai một tài liệu đậm chất thần học về việc độc thân linh mục, Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus. Thông điệp này ra đời giữa lúc Giáo Hội Công Giáo đang duyệt lại một số việc thực hành truyền thống lâu đời trong Giáo Hội. Độc thân linh mục là một việc thực hành hơn là một đòi buộc tín lí. Nhiều người lúc đó nghĩ rằng độc thân linh mục có thể sẽ được nới lỏng như những việc thực hành khác.

 

Để trả lời cho những vấn đề này, Đức Phaolô VI tái khẳng định giáo huấn và thực hành  truyền thống lâu đời của Giáo Hội Công Giáo.

 

 Những phản biện chống lại độc thân linh mục (5-11)

 

 Đức Phaolô VI bắt đầu Thông điệp bằng việc đưa ra những phản đối chống độc thân linh mục. Ngài trình bày một số lập trường chống đối:

 

Thiếu nền tảng xác thực của Thánh Kinh.

 

Có những người muốn vừa được lãnh chức linh mục lại vừa sống ơn gọi gia đình.

 

Nếu loại bỏ sự độc thân linh mục, có thể giải quyết tình trạng thiếu linh mục trong Giáo Hội.

 

Độc thân linh mục đi ngược lại sự phát triển tâm lí quân bình.

 

Dẫu chấp nhận sống độc thân, linh mục rất khó trưởng thành tâm cảm.

 

 Khẳng định luật độc thân linh mục

 

 Để trả lời cho những vấn nạn này, Đức Phaolô VI đã chứng minh giá trị của sự độc thân được nhìn nhận bởi rất nhiều người đã sống ơn gọi này trong đời sống Giáo Hội qua mọi thời và mọi nơi. Ngài khẳng định luật độc thân phải được tiếp tục duy trì: “Bởi đó chúng tôi nhìn nhận rằng luật độc thân hiện tại phải được duy trì liên quan đến thừa tác vụ Giáo Hội.” (14)

Ngài xác định quyền bính của Giáo Hội để chấp thuận những người lãnh chức linh mục: “Ơn gọi linh mục, dù được Thiên Chúa kêu gọi, không thể trở nên hiện thực hoặc hữu hiệu nếu không được chứng thực và chấp thuận bởi những vị có thẩm quyền và nắm trọng trách đối với việc phục vụ cộng đoàn Giáo Hội. Bởi đó, phận vụ của những người có thẩm quyền trong Giáo Hội là xác định những ai được coi là xứng đáng để phục vụ Giáo Hội, và chiếu theo những điều kiện thích hợp, bắt buộc việc thực hành luật độc thân này.” (15)

 

 Những lí do của việc độc thân linh mục (17- 34)

 

 Một phần khá dài của Thông điệp dành ra để trình bày những lí do mà Đức Thánh Cha tin rằng độc thân linh mục là một giá trị cao quý cho Giáo Hội. Ngài trình bày:

 

Mẫu mực sự độc thân của chính Chúa Kitô. Là Linh mục Tối Cao, Chúa Kitô đã sống đời độc thân và mời gọi những linh mục bước theo Người và  hành động nhân danh Người cũng phải hoạ lại đời sống ấy.

 

Nếu đời sống gia đình là một phương thế nên thánh thì Kinh Thánh chứng thực rằng độc thân là một phương thế cao quý hơn.

 

Độc thân như là một phương thế để yêu và phục vụ dân Chúa. Đời sống linh mục phải được thư rảnh để có thể hi sinh giáo dục cộng đồng dân Chúa.

 

Chúa Giêsu trình bày Nước Trời như là một nơi không còn những liên hệ gia đình hàm ý rằng thực hành độc thân chuẩn bị cho đời sống ấy.

 

 Đời sống độc thân trong truyền thống Kitô giáo (41)

 

 Lịch sử: ĐTC tóm kết lịch sử độc thân trong Giáo Hội Tây Phương, đã định  hình ngay từ thế kỉ IV và trình bày những xác quyết của các Công Đồng tiếp theo (36).

So sánh với Giáo Hội Chính Thống Đông Phương: ĐTC ghi nhận dù những người không độc thân có thể được truyền chức linh mục; nhưng chức giám mục chỉ dành cho những người độc thân. Một khi đã thụ phong linh mục, họ không còn được phép kết hôn (38).

 

 Những trường hợp ngoại lệ (42- 43)

           

 Tuy nhấn mạnh tầm quan trọng của luật độc thân như là luật chung trong Giáo Hội Công Giáo, ĐTC vẫn cho phép một số người gia nhập Giáo Hội từ những truyền thống khác được thụ phong linh mục. Tuy nhiên những trường hợp này không nên hiểu là luật độc thân được nới lỏng hay huỷ bỏ.

Đức Phaolô VI không cho rằng nới lỏng luật độc thân sẽ làm gia tăng ơn gọi trong Giáo Hội.

 

 Bảo vệ sự độc thân linh mục (50- 59)

 

            ĐTC dành một phần dài trình bày việc thực hành độc thân chống lại những lập trường cho rằng độc thân đi ngược lại bản tính con người.

 

Sự trợ giúp của ơn thánh: ngài nhấn mạnh rằng con người không chỉ là thuần tuý thể xác, và ơn gọi tận hiến cho Chúa trong đời độc thân phải được chính ơn Chúa trợ giúp. Độc thân linh mục phải đăt nền tảng trên sự tự nguyện và sự hiểu biết xác thực về tính dục.

 

Độc thân như một hướng sống độc lập với đời sống gia đình: Dù khẳng định sự thánh thiện của Bí tích hôn nhân, Đức Phaolô VI bác bỏ ý niệm cho rằng đời sống hôn nhân là con đường hữu lí duy nhất cho con người, bởi vì tình yêu nuôi dưỡng đời độc thân linh mục cũng phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa.

 

Độc thân như một phương thế để kết hợp với Chúa sâu xa hơn: Đức Phaolô VI dạy rằng khi thoát khỏi những ràng buộc gia đình, linh mục sẽ được tự do hơn để đến với Chúa. Bầu khí thinh lặng nhờ tránh phải vướng bận của vợ con sẽ nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của linh mục.

 

 Những điều cần phải quan tâm trong việc đào tạo linh mục (60- 72)

           

 Đức Phaolô VI hiểu rằng độc thân là một đòi hỏi khó khăn đối với con người, ngài nhắc nhở các vị có trách nhiệm phải quan tâm giúp các ứng sinh linh mục biện phân ơn gọi một cách cẩn trọng để xác tín rằng họ thật sự được gọi sống đời sống ấy: “Các nhà giáo dục cần ý thức rằng đó một trong những trách nhiệm nạng nề nhất của họ.” Ngài còn cho rằng những nâng đỡ của người khác cần phải được tiếp tục duy trì cả sau khi đã thụ phong linh mục.

 

Ngài nhấn mạnh rằng độc thân là một chọn lựa khó khăn, bởi vậy cần có những việc thực hành khổ hạnh trong cuộc đời linh mục.

 

Ngài cũng gợi ý rằng, trước khi khấn giữ lời hứa sống độc thân suốt đời, ứng sinh linh mục phải trải qua một giai đoạn thử thách đầy đủ.

 

 Giải nhiệm khỏi chức linh mục (84- 87)

 

 Đức Thánh Cha hướng về những người quyết định rời bỏ đời sống độc thân linh mục. Và ngài chấp thuận việc cứu xét trường hợp những người đã bỏ lời hứa sống độc thân có thể được trở lại với đời sống này hay là không. Ngài nghiêm giọng: “Nếu có những linh mục nghĩ rằng, họ cảm thấy buồn sầu, hổ thẹn và bất an trong đời sống Giáo Hội, rồi nếu họ nghĩ đến sự nghiêm trọng  và những đòi buộc gắt gao, cùng sự nguy hại mà họ có thể gây ra trong đời sống này, họ cần phải quan tâm suy nghĩ về quyết định của mình; Họ hãy tha thiết cầu nguyện và can đảm ngăn chặn những nguyên do gây ra sự sụp đổ thiêng liêng này (86).”

 

            Kêu gọi giáo dân (96- 97)

 

            Đức Phaolô VI kết thúc Thông điệp bằng việc kêu gọi giáo dân cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, đồng thời khuyến khích họ hãy tạo những tương quan tốt đẹp với các linh mục như một phương thế giúp đỡ các linh mục.

 

Được ban hành sau sắc lệnh Presbyterorum Ordinis hai năm,Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus ghi dấu mở đầu cho một giai đoạn khủng hoảng trầm trọng nhất về linh mục trong vòng bốn trăm năm qua. Nhưng Huấn Quyền vẫn dứt khoát và can đảm trình bày ý muốn của mình một cách chính thức với các văn kiện tiếp theo: Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 về Chức Linh Mục Thừa Tác, quy định trong văn bản Giáo Luật năm 1983 (x. Canon 277, §1), và Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (s. 29). Nhìn lại bốn mươi năm Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus, chúng ta hợp với tâm tình của Đức Hồng Y Claudio Hummes để tạ ơn Chúa vì “Độc thân linh mục là một hồng ân cao quý mà Chúa Kitô ban cho Giáo Hội của Người, một hồng ân đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên suy niệm và làm cho vững mạnh thêm, nhất là trong thế giới tục hoá hôm nay .”

 

 

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

                                                                                                                                                                                                                                                                       

 

LỄ PHONG CHỨC LINH MỤC TẠI GIÁO PHẬN BÙI CHU

Sáng nay 09.06.2007 đã diễn ra lễ phong chức linh mục cho 50 thầy phó tế, trong đó có 45 thầy thuộc Giáo phận Bùi Chu, 1 thầy thuộc Giáo phận Bắc Ninh, 2 thầy thuộc Giáo phận Phát Diệm, 2 thầy thuộc Dòng Đa Minh Việt Nam.

Giáo dân từ khắp các ngả đường nô nức kéo về khu Toà Giám mục và Nhà thờ Chính toà, nơi diễn ra thánh lễ. Có cả một nhóm người Hmông trừ Sapa cũng có mặt. Sân TGM, sân Nhà thờ Chính toà, trong lòng nhà thờ Chính toà tất cả đều tràn ngập. Người ta còn trèo lên mái nhà của các tu viện và nhà dân xung quanh để xem lễ. Hiếm có khi nào và nơi nào ở Miền Bắc có dịp quy tụ đông đảo giáo dân như vậy. Khu vực Tòa Giám Mục và Nhà thờ Chính toà Bùi Chu rộng mênh mông là thế vậy mà bỗng chốc trở nên chật chội trước một biển người và xe các loại.

Thánh lễ truyền chức do Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm chủ sự. Giúp ngài trong việc phong chức còn có Đức cha Antôn Vũ Huy Chương, GM Hưng Hoá, Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, GM Hải Phòng và Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, GM Phụ tá Bùi Chu. Đồng tế trong thánh lễ còn có khoảng 250 linh mục đến từ các giáo phận: Bùi Chu, Phát Diệm, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Hoá, Phú Cường, TP. Hồ Chí Minh, Kontum, Vinh, Xuân Lộc, Vũng Tầu-Bà Rịa, v.v...

Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương đã giảng lễ. Ngài nói Giáo phận Bùi Chu có nhiều cái nhất và hôm nay thêm một cái nữa, đó là có một thánh lễ phong chức linh mục phong chức đông nhất và trọng thể nhất. Ngài cũng mời gọi giáo dân cầu nguyện cho các tân linh mục luôn luôn là những con người sống các mầu nhiệm thánh, những con người đối thoại, những con

Lễ phong chức tân Linh Mục người khiêm tốn phục vụ và hăng say truyền giáo trong tinh thần mới và bằng một cung cách mới.

Hàng vạn giáo dân hy sinh hãm mình phơi mình dưới nắng nóng tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các tân linh mục. Thật là cảm động. Thánh lễ truyền chức diễn ra súc tích, ngắn gọn. Từ lúc làm dấu thánh giá nhập lễ đến lúc ban phép lành ra về, chúng tôi thấy chỉ hết 1 giờ 35 phút. Lễ Phong chức cho 50 thầy với bấy nhiêu nghi thức vậy với bằng ấy thời gian thì thật là phải khen Ban tổ chức rất là khéo léo. Khó nơi nào sánh kịp!

Một thánh lễ có đông các tiến chức như hôm nay quả thật là điều không bình thường. Cũng vì thế mà có những tân chức năm nay đã trên 60 tuổi. Người trẻ nhất cũng đã qua tuổi 30. Nếu cứ bình thường thì các ngài đã tiến chức từ mấy chục năm trước, chí ít cũng từ 9 cho đến 4 năm trước. Điều cần phải nói thêm là hầu hết các tân chức hôm nay đều đã được đào tạo “chui” một cách chính quy và bài bản ở Sài Gòn từ cuối thập niên 1980 đến đầu thập niên 2000. Hết học đạo lại học đời. Hết học Sài Gòn lại học Hà Nội. Có nhiều. tân chức, sau khi tốt nghiệp thần học ở Sài Gòn, đã tiếp tục đi học đại học ở Hà Nội và Nam Định. Các tân chức đã trải qua nhiều cảnh gian nan khốn khó đủ đường, vì thế giáo dân cũng thêm thương thêm mến các ngài. Cũng có lẽ vì thế mà hôm nay giáo dân đến tham dự thánh lễ quá đông. Niềm vui vỡ oà!

Nhìn vào bản tổng kết con số phong chức linh mục của Giáo phận Bùi Chu từ hơn 10 năm qua chúng tôi thấy thật là tuyệt vời: Số linh mục Bùi Chu xuất phát từ chủng viện “chui” bán trú ở Sài Gòn và đây đó là 68 (theo cách tính của chúng tôi), trong khi số linh mục được đào tạo từ nguồn Chủng viện chính thức ở Hà Nội chỉ có 25.

Chúng tôi thấy không một giáo phận nào ở Miền Bắc có số linh mục được đào tạo ở Sài Gòn nhiều hơn Hà Nội, “chui” nhiều hơn công khai, như Bùi Chu. Mà cái hay là số linh mục được đào tạo “chui” này cuối cùng cũng được ra làm việc công khai như các linh mục được đào tạo chính thức theo phép tắc của nhà nước!

Thế mới cảm phục tầm nhìn và bản lĩnh của các đấng bản quyền của Giáo phận Bùi Chu xưa nay! Ngạc nhiên hơn nữa, người có vai trò chủ đạo trong chương trình này là Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất, người đã về với Chúa từ năm 1999 và người vốn xuất thân là một thầy giảng. Ý Chúa thật nhiệm mầu!

T. H.

LỄ CUNG HIẾN VÀ KHÁNH THÀNH

THÁNH ĐƯỜNG GIÁO XỨ TÙNG LÂM, ĐÀ LẠT

  

 

MỘT CƠ DUYÊN THẬT DUYÊN CHO GIÁO XỨ CHÚA CỨU THẾ :

 

Giáo xứ Chúa Cứu Thế Tùng Lâm Đàlạt được thành lập từ khá lâu gần 60 năm do các Cha Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách. Với khí hậu mát mẻ của thành phố hoa, giáo xứ Tùng Lâm như nhiều giáo xứ trong giáo phận Đàlạt vẫn trên đà phát triển. Từ một giáo xứ khiêm tốn với số giáo dân cũng khiêm tốn, giáo xứ Tùng Lâm đã trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm của nhiều đời Cha xứ, giáo xứ Tùng Lâm ngày nay đang vương mình, thay da đổi thịt, giáo dân nay đã tăng lên hơn 2.000 người, với Cha xứ lục tuần Antôn Trần Thế Phiệt và hai Cha phó Dòng Chúa Cứu Thế, giáo xứ Tùng Lâm quả có cơ may, duyên đẹp đi lên. Đồng thời với sự quyết tâm của Cha xứ Antôn giáo xứ Tùng Lâm đang đi lên về mọi mặt.

 

Nhà thờ Tùng Lâm cũ nằm nay trên mặt đường lộ, đường dẫn vô Lăngbiăng, Suối Vàng, nhà thờ đã xuống cấp trầm trọng vì nó được xây dựng từ lâu với những vật liệu chưa được tân tiến lắm, vả lại địa thế thấp quá không thích nghi kịp với đà đi lên của xã hội. Do đó, được sự cho phép của Tòa Giám Mục Đàlạt, Cha xứ và bà con giáo dân đã quyết tâm xây dựng cho Chúa một Nhà Thờ khang trang, thoáng mát và hiện đại hơn hợp với đà phát triển của xã hội, của đất nước đang đi lên với thời kỳ hội nhập. Ngôi Nhà Thờ mới Cha cựu chính xứ Tùng Lâm xưa là Cha Giuse Nguyễn Viết Phục cũng canh cánh muốn thực hiện nhưng Chúa không cho cơ duyên Ngài xây dựng.

 

NGÀY THỨ HAI 12-06-2007 NGÀY ĐÁNG GHI NHỚ :

 

Ngay từ sáng sớm hôm nay 12/6/2007, nhiều bà con giáo dân Kinh và Dân Tộc đã tấp nập tuôn đến Nhà Thờ mới Tùng Lâm để dự lễ khánh thành và cung hiến ngôi Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Tất cả bà con giáo dân hôm nay đều quần áo tươm tất, mới mẻ và biểu lộ sự vui mừng khôn tả trên gương mặt giữa khí hậu mát mẻ của xứ sương mù…

 

Đúng 9 giờ 30, đoàn đồng tế gồm 60 linh mục triều và dòng tiến vào Nhà Thờ cùng với Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, giám mục Đàlạt trong tiếng hát tưng bừng bằng hai thứ tiếng Kinh và Dân Tộc Kơho. Nghi lễ cung hiến Nhà Thờ là nghi lễ long trọng nhất trong phụng vụ thánh. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã cử hành lễ cung hiến Nhà Thờ hết sức trang trọng và sốt sắng. Trong bài giảng, Đức Cha đã nhấn mạnh đến việc xây dựng đền thờ tâm hồn, Ngài vui mừng vì Tùng Lâm đã xây dựng được Nhà Thờ khang trang, thoáng mát và đẹp mắt, xứng đáng cho Chúa ngự, cơ ngơi vững chãi thay thế cơ ngơi cũ xem ra không còn thích nghi với hoàn cảnh và đà phát triển đi lên của Hội Thánh, của Địa Phận và của Xã Hội, nhưng Tùng Lâm phải làm sao để các anh chị em nghèo, đặc biệt các anh chị em Dân Tộc Kơho vẫn không ngại tới vì sợ cơ ngơi đẹp, sang trọng, có còn phù hợp với họ không ? Đức Cha khuyên lúc nào Nhà Thờ và Nhà Xứ Tùng Lâm cũng phải rộng mở để đón tiếp người nghèo và mọi người…

 

Trong bài đáp từ sau lễ cung hiến, Cha Quản Xứ Antôn Trần Phế Phiệt đã cám ơn Đức Cha, Quí Cha, và mọi người đã nhiệt tình nâng đỡ giáo xứ để hôm nay Nhà Thờ được cung hiến và khánh thành tốt đẹp theo ý Chúa. Giáo xứ Tùng Lâm hôm nay và mãi mãi vẫn phải là giáo xứ mở rộng, giáo xứ truyền giáo.

 

Mọi người hân hoan dự tiệc trưa trong bầu khí phấn khởi và vui mừng vì

Ơn Cứu Độ Chan Chứa Nơi Người “ ( Tv 129, 7 ).

 

Mãi mãi, giáo xứ Tùng Lâm sẽ ghi nhớ ngày hôm nay 12/6/2007, ngày khánh thành và cung hiến Nhà Thờ Chúa Cứu Thế như là mốc điểm ra khơi ( Duc in altum ) thả lưới…

 

LM NHL ghi để kỷ niệm ngày  khánh thành và cung hiến Nhà Thờ Tùng Lâm, Đàlạt.

 

                    

   “HÃY ĐẾN VÀ THEO THẦY”

 

Tháng 6, tháng Thánh Tâm, tôn vinh tình yêu Thiên Chúa nơi trái tim Chúa Giêsu Kitô “mũi giáo đâm vào cạnh sườn Người thâu đến trái tim tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34) phát sinh các bí tích dưỡng nuôi con người.

 

Tháng 6, tháng của những lễ phong chức, lễ khấn dòng, kỷ niệm ngày chịu chức, khấn dòng nên tháng 6 cũng là mùa ơn gọi.

 

Hôm nay, ngày 19.6.2007, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, Giám Mục Nha Trang đã chủ sự Lễ Khấn Dòng tại nhà nguyện Dòng MTG Nha Trang. Cùng đồng tế có Đức Ông Giuse Maria Trần Thanh Phong, Tổng đại diện Giáo phận Nha trang, Đức Ông JB Lê Xuân Hoa, Tổng đại diện Giáo phận Phan thiết và khoảng 90 Linh mục. Đông đảo tu sĩ nam nữ và thân nhân các Tân khấn sinh sốt mến tham dự.

 

Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang có thêm:

3 Nữ tu mừng Ngân khánh khấn dòng:

  Ter Trần Thị Kim Tịnh

  Anna Nguyễn Thị Mỹ Lương

  Ter Cao Thị Ngọc Lan.

11 Nữ tu Tuyên khấn trọn đời:

 Maria Mad Nguyễn Thị Minh Hoa

 Cécilia Nguyễn Thị Hoàng Oanh

 Maria Đặng Thị Thuý Phượng

 Anê Phạm Hồ Hoài Hương

 Anna Hồ Thị Minh Quyền

 Ter Trần Thị Minh Trinh

 Anna Nguyễn Thị Hồng Thới

 Maria Võ Thị Thanh Lài

 Maria võ Thuỵ Ngân Hà

 Maria Nguyễn Thị Kim Phượng

 Ter  Nguyễn Thị Ngọc Yến

 

Các Nữ tu đã về Nhà Dòng trước 2 tháng để được bồi dưỡng thêm về hiến chương, về tu đức, đã được linh thao, dành nhiều thì giờ để cầu nguyện tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chuá. Các Nữ tu đã kinh nghiệm được tình yêu của Chúa, đã cảm thấy hạnh phúc vì được Chúa yêu. Chính vì thế mà các Nữ tu quyết tâm bước theo Chúa trọn đời.

 

Người ta thắc mắc không biết dựa vào đâu lại có lời khấn vĩnh viễn, xem ra Phúc Âm không nói rõ ràng, nhưng không phải vì vậy mà không có trong Phúc Âm… “Hãy đến và theo Thầy” lời của Chúa Giêsu đủ để gói ghém tất cả. Vĩnh khấn là theo Chúa Giêsu trọn đời, theo thì phải biết, phải tin, phải yêu mến và phải làm theo lời Ngài. Tiếng Chúa gọi và con người đáp trả, đáp trả cách cụ thể rõ ràng, dứt khoát, đó là lời khấn dòng, lời khấn vĩnh viễn.

 

Lời khấn dòng : Khiết tịnh, vâng lời, khó nghèo, theo gương Chúa Giêsu, đi theo Chúa Giêsu làm thành bản chất của đời tu.

 

Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu lớn lao đến mức độ trào dâng ra để yêu mến mọi người. Người nữ tu khấn giữ đức khiết tịnh là dành để cho Thiên Chúa một tình yêu trọn vẹn, từ đó yêu thương hết mọi người, yêu không điều kiện, tất cả xuất phát từ tình yêu Đức Kitô.

 

Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha, ý muốn của Chúa Cha trở nên lẽ sống của Chúa Giêsu “mọi việc Ta làm đều theo ý Đấng đã sai Ta…”, theo Chúa phải từ bỏ mọi sự, nhưng vâng lời để theo Chúa thì chúng ta lại có tất cả.

 

Về đức khó nghèo, Chúa Giêsu nói rất rõ trong Phúc Âm “con cáo có hang, con chim có tổ, con người không chỗ tựa đầu…”, không còn giữ lại gì cho mình.

 

Giữ ba lời khuyên Phúc Âm không phải là một sự mất mát nhưng là một sự giàu có và vô cùng phong phú vì có Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình, có Chúa Giêsu là chúng ta có cả Thiên Chúa Ba Ngôi, tất cả mọi sự đều quy về điều này…

 

Người Nữ tu đã hiến dâng đời mình cho Chúa, bước theo Chúa và thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị nữ tu” thật cảm động:

 

Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân phát xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát xít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp… Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề:

- Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuôn gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”. Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng; chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”.

- Không! Không! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá!

- Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.

- Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này!

Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”.

Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!”.

Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.

 

Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại cómột người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạt đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.

 

Viên tướng Phát xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. (Trích: Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 175-177).

Ap dụng câu chuyện, Đức Hồng y khuyên bảo : “Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con hãy cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” (ĐHV 427) Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” (ĐHV 431).

 

Lễ khấn dòng của các Nữ tu là một giao ước, là một lễ cưới huyền nhiệm. Trong thánh lễ, Đức cha chủ sự sẽ làm phép nhẫn cho các Nữ tu, xỏ nhẫn vào tay từng người. Chiếc nhẫn ấy là dấu chỉ các Nữ tu từ nay là hôn thê, là người yêu của Chúa. Lễ cưới của các Nữ tu không có xe hoa, không có chú rể, vì Tân Lang là Đức Kitô. Các Nữ tu trở thành tân nương, nhưng vẫn là những trinh nữ thanh khiết. Hình ảnh ấy, Thánh Phaolô ước muốn cho Giáo hội. Ngài mong cho Giáo hội được tinh tuyền như một người trinh nữ. Các trinh nữ được hiến thánh trong Giáo Hội luôn được quý trọng, được đề cao.

       

Các Nữ tu thường xuyên tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, và đó là điều làm cho Chúa sung sướng, hạnh phúc, các Nữ tu sẽ được Chúa dẫn đi sâu vào đường lối của Người. Người đã đạt tới Vinh Quang bằng Con Đường Thập Giá. Người đạt tới tột điểm của hạnh phúc kinh qua con đường khổ nạn. Đó là đường lối mà Chúa Cha đã vạch ra cho Chúa Kitô, cho Giáo hội và cho mỗi một người Kitô hữu. Ai muốn là môn đệ của Người, đều phải theo con đường ấy. Các Nữ tu khấn dòng đã chọn con đường ấy một cách đặc biệt hơn. Các Dì đã chọn Dòng Mến Thánh Giá.Chính các Dì sẽ tuyên dương Thánh Giá Cứu Độ của Chúa. Mọi người đều mong rằng không ai trong các Dì sẽ hối tiếc về lựa chọn của mình.

      

Các Nữ tu thuộc trọn về Chúa suốt đời nên thấy khó nghèo là hạnh phúc nhất. Các Dì không có  tiền bạc, nhưng lại thấy mình hạnh phúc hơn những người có tiền bạc. Các Nữ tu chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống hằng ngày, những hy sinh hãm mình, những va chạm hằng ngày trong cuôc sống chung, những hiểu lầm ngộ nhận. Các Dì sẽ thấy mọi khổ đau đều trở thành hạnh phúc, niềm vui, niềm an ủi cho những ai yêu mến Chúa. Hằng ngày các Dì sẵn sàng hãm dẹp tính xác thịt, không cần những thú vui đời sống vợ chồng, không đi tìm tình cảm nam nữ, cố gắng giữ cho tâm hồn trong sạch, các Dì sẽ được thấy Thiên Chúa. Tâm hồn trong trắng làm cho các Dì dễ tiếp xúc với Chúa, dễ gặp gỡ Chúa.

 

      Các Nữ tu bước theo Chúa suốt đời. Họ hạnh phúc khi gặp gỡ Chúa vì yêu Chúa. Họ hạnh phúc vì yêu thương mọi người, và yêu thương một cách trọn hão. Không gì dễ bằng yêu thương, và cũng không gì khó bằng yêu thương. Nhưng mỗi hành vi yêu thương đều mang lại hạnh phúc, và cuộc đời của những ai được dệt bằng yêu thương là cuộc đời hạnh phúc.

      Mặc dù con đường của Chúa Giêsu là con đường Thánh Giá, nhưng con đường ấy vẫn là con đường hạnh phúc, con đường đưa tới Nước Trời, là con đường Tám Mối Phúc. Nếu sống đời tu trọn vẹn, tu sĩ vừa là hiện thân của Chúa Giêsu chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí mình như được ghi trong Hiến Chương Dòng Mến Tháng Giá; cũng vừa là hiện thân của Nước Trời, của Tám Mối Phúc. Tu sĩ là những chứng nhân sống động nhất cho Tình Yêu của Thiên Chúa giữa trần gian.

 

Theo Tông Huấn Vita Consecrata, mọi ơn gọi đời sống thánh hiến đều bắt nguồn từ Thập giá Chúa Kitô (số 23). “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình mà theo." (Mc 8, 34).Chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh là nguồn linh hứng cho mọi ơn gọi. Hồng ân Thánh Thần của Thập giá là nguồn gốc mọi hồng ân, đặc biệt là hồng ân đời sống thánh hiến. Khi từ bỏ mình, người Nữ tu không đi tìm danh lợi và sự hãnh diện cho chính bản thân và gia đình. Từ bỏ mình cũng có nghĩa là từ chối nhiều điều kiện "thuận lợi " trong cuộc sống giúp thăng tiến bản thân. Khi lựa chọn bước theo Chúa Giêsu, thì như các Tông đồ, thuyền lưới buông bỏ, gia đình cũng xin chia tay, ghế thâu thuế cũng trả lại. Từ bỏ mình chưa đủ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi phải vác thập giá của mình mà bước theo. Vác Thập giá của mình đó chính là thái độ sẵn sàng đón nhận những vất vả, đau khổ, thử thách mà người Nữ tu sẽ gặp suốt hành trình. Con đường theo Chúa Giêsu không trải đầy nhung lụa mà là những gai nhọn và gian nan.

 

Trong cuộc đời hôm nay, các Nữ tu đang dấn thân phục vụ nhiều lãnh vực xã hội. Đem yêu thương đến những tâm hồn đau khổ và tội lỗi, đưa niềm tin và hy vọng đến cho những ai thất vọng, tạo hướng đi dẫn tới hạnh phúc cho những người bơ vơ và lạc bước. Dâng hiến không có nghĩa là biến trái tim trở nên khô cứng lạnh lùng băng giá, không còn rung cảm trước những vẻ đẹp của nhân tình thế thái. Dâng hiến cũng không phải là trở nên lạc lõng cô độc, khinh thường tình yêu trần thế; mà trái lại, người Nữ tu vẫn là người giữa cuộc đời, vẫn tiếp nhận những làn sóng yêu thương gọi mời trong rung động của trái tim. Vẫn có thể bị dao động trước một đối tượng mình tiếp xúc. Vẫn nhìn thấy những kỳ lạ tình yêu đi tìm một nữa hồn mình. Nhưng hạnh phúc là dám từ bỏ để dâng tình yêu cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến với quyết tâm thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đó là Ơn Gọi cho những người bước đi theo Thầy Giêsu.

       

Lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục đã giúp bao tâm hồn tu sĩ thuộc trọn về Chúa suốt đời. Ra đi loan báo Tin mừng trên mọi nẻo đường phục vụ. Hương thơm của cuộc đời sống thanh khiết đã mang đến cho cuộc đời một mùa xuân dịu mát trong những vẻ đẹp thanh cao nhất, biến đổi thế giới trong những ích kỷ chiếm đoạt của tình yêu đam mê, hướng nhân loại nhìn về Nước Trời mai sau trong hạnh phúc vĩnh cửu tuyệt mỹ.

        

Đời tu là một bài ca tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì đời sống thánh hiến được ban cho Giáo hội. Hồng ân Thiên Chúa chiếu rực trong cuộc đời của người tu sĩ để rồi người tu sĩ được biến đổi để đem Chúa Kitô cho cuộc đời.

 

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

                                       

 

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH GIOAN BAOTIXITA

 

Thánh Gioan Baotixita là ai?

Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về Ngài. Phúc Âm thánh Luca viết: "Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung điện. Thế thì anh em đi xem gì?

"Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó.

"Mà tôi nói cho anh em biết: Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng:

"Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Lc 7,24-27).

Theo lời Chúa Giêsu phán trên đây, thì thánh Gioan là vị ngôn sứ, được Chúa sai đi dọn đường cho Đấng Cứu thế.

Với những tước vị đó và với những trọng trách đó, thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có một không hai trong Phúc Âm. Lịch sử của Ngài cũng minh chứng như vậy.

Tuy sao, con đường thiêng liêng Ngài đã đi không thuộc riêng cho Ngài. Nhưng nó là một kho tàng chung. Mỗi người có thể học được nơi Ngài một bài học mà mình thấy cần.

Riêng đối với tôi, bài học mà Ngài dạy tôi kỹ nhất để nên đạo đức, đó là biết dùng con đường thời gian của mình.

Con đường thời gian của thánh Gioan Baotixita chia thành ba giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất là thời gian Ngài được Chúa đào tạo và tự đào tạo.

- Giai đoạn thứ hai là thời gian Ngài thi hành nhiệm vụ rao giảng.

- Giai đoạn thứ ba là thời gian Ngài hy sinh hiến tế, kết quả của giai đoạn rao giảng.

Thánh Gioan đã biết dùng thời gian một cách khôn ngoan trong từng giai đoạn cuộc đời của Ngài.

1/ Giai đoạn thứ nhất là thời gian đào tạo

Thánh Gioan Baotixita đã biết dùng thời gian để cho Chúa đào tạo và tự đào tạo mình. Đào tạo bằng lối sống khổ chế, chiêm niệm và vui hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên trong sa mạc yên tĩnh.

Lối sống đó lấp kín thời gian. Qua lối sống ấy, Ngài lắng nghe ý Chúa. Tâm hồn Ngài được Chúa kéo về hướng chân thiện mỹ. Qua nhiều ngày, lối sống đó trở thành thói quen.

Trong sa mạc, Ngài đón nhận được các ơn của Chúa, nhưng rất có thể Ngài cũng gặp các chước ma quỷ cám dỗ. Đây là dịp Ngài thu lượm kinh nghiệm về những đấu tranh giữa thiện và ác. Muốn cho mình luôn thuộc về sức mạnh sự thiện và thắng vượt được thế lực sự ác, Ngài phải tỉnh thức, cầu nguyện, cậy nhờ ơn Chúa. Mỗi thành công là một kinh nghiệm về sự phải từ bỏ tội lỗi, để trở về với Chúa.

Thời gian đào tạo mình cho Ngài thấy: Đào tạo là việc lâu dài. Không sách vở nào thay thế được kinh nghiệm bản thân. Không trường sở nào thay thế được thời gian tập luyện.

2/ Giai đoạn thứ hai là thời gian thánh Gioan Baotixita thi hành nhiệm vụ rao giảng

Trong giai đoạn này, thánh Gioan Baotixita đã rất tận dụng thời giờ cho nhiệm vụ của mình. Đề tài rao giảng đầu tiên được nêu lên rất rõ. Đó là sám hối, đền tội.

Về việc sám hối, Ngài đòi phải chịu phép rửa và đền tội bằng những việc bác ái, chia sẻ công bằng. Ngài nói: "Ai có hai áo, thì hãy chia cho người khác. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy" (Lc 3,11) ... Với những người thu thuế, Ngài bảo: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình" (Lc 3,13).

Tiếp liền với việc sám hối, thánh Gioan Baotixita chuyển sang đề tài đợi chờ Đấng Cứu thế. Đợi chờ bằng thái độ khiêm tốn hạ mình, và tôn vinh Đấng Cứu thế: "Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Lc 3,16).

Khi vừa thấy Chúa Giêsu đến từ đàng xa, Gioan Baotixita liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Ngài quả quyết như vậy, không phải bằng trực giác, mà bằng chứng cớ rõ ràng: Tai Ngài đã nghe lời trên trời báo, và mắt Ngài đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Kitô (x. Ga 1,31-34).

Ngài rao giảng với tư cách người làm chứng.

Ngài rao giảng với lửa thiêng từ nội tâm phát ra. Ngài làm chứng bằng chính đời sống đạo đức khác thường của Ngài. Có thể nói: Lời giảng của Ngài đã được chuẩn bị từ nhiều năm tháng kết hợp với Chúa.

3/ Giai đoạn thứ ba là thời gian hy sinh hiến tế, kết quả của việc rao giảng

Trong thời gian này, Gioan Baotixita nếm niềm vui do thành công và nỗi buồn khổ do thất bại. Phúc Âm thánh Luca viết: "Nghe Gioan giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng công chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông" (Lc 7,29-30).

Bị giới đạo đức và thông luật trong đạo khước từ, Gioan Baotixita cảm thấy đau xót.

Cơn đau đớn càng tăng thêm, khi Gioan Baotixita bị vua Hêrôđê bắt bỏ tù. Cảnh đó xảy ra bất ngờ. Gioan Baotixita đón nhận với lòng phó thác. Thời gian này, Gioan Baotixita sống đời hiến tế. Sau cùng, Ngài hy sinh mạng sống trong đớn đau xác hồn.

Trong suốt giai đoạn bị thử thách này, Gioan Baotixita dùng thời gian một cách khác. Đó là hết lòng tin cậy vào Chúa, hết lòng quảng đại chịu đau khổ vì Chúa.

Những suy nghĩ trên đây đưa tôi kết luận này: Thời giờ là vàng. Chúa đã trao cho thánh Gioan Baotixita một số vàng thời gian. Ngài đã dùng số vàng đó để sinh lời lãi. Lời lãi rất lớn, lời lãi rất quý, lời lãi rất nhiều cho Nước Trời.

Mỗi người chúng ta cũng đã nhận được thứ vàng quý là thời gian. Kẻ nhiều người ít. Chúa đợi chúng ta nộp cho Người số lời lãi phải có. Chúng ta đã sinh lời lãi thế nào? Điều đó tuỳ ở sự chúng ta biết dùng thời gian của mình một cách thông minh, theo đúng định hướng hợp ý Chúa.

Thiết tưởng đây là gợi ý tốt, để chúng ta mừng lễ thánh Gioan Baotixita.

 ĐGM. GB Bùi Tuần

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ HAI VỊ THÁNH CỦA TINH THẦN HIỆP NHẤT

Có lần đến mừng bổn mạng một vị Linh mục trọng tuổi. Ngài nói đùa rằng : “Tội nghiệp hai Thánh Phêrô và Phaolô quá ! Những ông thánh bà thánh khác nhỏ hơn, thế mà lại được đứng tên một mình độc lập tự do hạnh phúc trong một ngày lễ. Đàng này Phêrô và Phaolô tiếng là hai thánh lớn của cả Giáo hội, thế mà lại phải chen vai đứng chung với nhau chặt chội trong một ngày lễ, dẫu đó là ngày lễ lớn. Ngài cười và phát biểu tiếp : Thà làm lớn trong một ngày lễ nhỏ còn hơn là Phêrô và Phaolô lại chịu làm nhỏ trong một ngày lễ lớn”.

 

Dĩ nhiên linh mục ấy chỉ nói đùa thôi. Nhưng trong cái tưởng như đùa cợt mua vui giữa các linh mục với nhau biết đâu lại chẳng ẩn chứa một chút nghiêm túc, một thoáng lắng sâu gợi mở cho suy tư về ngày lễ, để rồi khi nhìn vào chân dung của Phêrô và Phaolô bỗng chợt nhận ra dụng ý của Giáo hội; mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô chung trong cùng một lễ là muốn nói lên tinh thần hiệp nhất, một tinh thần đã làm nên sự sống và mãi còn là sức sống của Giáo hội.

 

1 Phêrô và Phaolô : hai vị thánh có nhiều khác biệt.

 

Nói đến hiệp nhất là nói đến một tinh thần gặp gỡ khởi đi từ những cái khác biệt. Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm.

 

Về thành phần bản thân : Phêrô là dân chài lưới chuyên nghiệp, cuộc sống chỉ diễn ra quanh quẩn nơi biển hồ Tibêria. Tác phong ngài bình dân, tính tình ngài bộc trực, có sao nói vậy, thậm chí đến độ thô thiển mộc mạc. Mặc dù có bề dày kinh nghiệm tuổi tác và ngành nghề, nhưng kiến thức về đời sống của ngài có chăng cũng không lớn hơn diện tích biển hồ. Còn Phaolô, ngược lại, là con nhà trí thức được ăn học đàng hoàng, đã từng có dịp đi lại đó đây. Kiến thức rộng, gốc gác Biệt phái nhiệt thành với truyền thống cha ông, đầy năng lực, tuổi trẻ tài cao và cũng không thiếu tham vọng cho tương lai, nên Phaolô mới nổi máu anh hùng “vấy máu ăn phần”  trong việc bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu.

 

Về ơn gọi theo Chúa Giêsu : Phêrô thuộc hệ chính quy, là một trong những tên tuổi mau mắn đáp lời theo Chúa Giêsu từ những ngày đầu sứ vụ công khai của Người. Nhanh nhẩu, mau mắn, hăng hái, ông thường thay mặt cho anh em để lên tiếng phát biểu. Được đặt làm đầu Nhóm Mười Hai đặc tuyển tức là Thủ quân đội tuyển Tông đồ với một bề dầy thành tích đáng gờm. Trong khi đó, Phaolô chỉ là đàn em, đã chẳng được theo trực tiếp Chúa Giêsu lại còn khét tiếng phản động đến nỗi trên đường đi Đamas để bố ráp tín hữu, tiếng từ trời đã phải can ngăn “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ “. Nhưng đó cũng là khởi đầu của ơn gọi để Phaolô nghĩ lại sám hối mà đầu quân phục vụ Giáo hội. Chính Phaolô đã có lần thú nhận chẳng giấu giếm chi “Tôi là dân sinh sau đẻ muộn”. Không mặc cảm.

 

Về truyền giáo : Nếu Tông đồ là kẻ được sai đi truyền giáo, thì tuỳ theo khả năng cá nhân, mỗi người lại phục vụ theo cung cách của mình. Phêrô chủ trương “đánh bắt tại chỗ’, phục vụ Kitô hữu đa phần gốc Do Thái trở lại, nên thiết lập toà Antiôkia để dễ dàng điều hành quy tụ là chuyện bình thường. Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên trong lịch sử Công giáo, các tín hữu nhận lấy danh xưng : ‘Kitô hữu’. Còn Phaolô lại theo chủ trương “ đánh bắt ngoài khơi”, ra khơi để truyền giáo với những chuyến hải trình không mệt mỏi. Trẻ trung, khỏe mạnh, học rộng, biết nhiều đã trở thành lợi thế cho ngài hành trình về phía trước Dân ngoại.

 

Chủ trương khác nhau nên có lúc không tránh hết được những va chạm. Đã có to tiếng về vấn đề cắt bì hay không cắt bì cho những người ngoại giáo gia nhập Kitô giáo. Đã có hiểu lầm ấm ức khi đối mặt giữa một bên là cầm cương nẩy mực đạo giáo và một bên là quan tâm đến những nhu cầu mục vụ chính đáng của tín hữu gốc lương tâm. Tuy nhiên khi hiểu ra, hai đấng đã tay bắt mặt mừng trong một tinh thần hiệp nhất lạ lùng !

 

2. Phêrô và Phaolô : tượng đài hiệp nhất.

 

Khởi đầu sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, nếu hai vị đã hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng thì cũng hiệp nhất trong cùng một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin trung thành minh chứng.

 

Cùng chết tại Rôma. Cùng chịu tử đạo dù hình thức khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Cùng trở thành nền đắp xây tòa nhà Hội thánh. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công giáo, để rồi hằng năm cứ vào ngày 29 tháng 6 lại cùng được mừng chung trong một ngày lễ. Chừng đó chữ “cùng”  cũng đủ đề Phêrô gần gũi Phaolô và để Phaolô đứng chung với Phêrô như hình với bóng. Mình mới ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Mãi mãi Phêrô và Phaolô là tượng đài bất khuất và là bài ca không quên của tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội. Tinh thần ấy hôm nay chỉ ra rằng.

 

Hiệp nhất không phải là đồng nhất theo kiểu đồng bộ nhất loạt ai cũng phải như ai, giống đồng phục của một hội đoàn hay như trong sản xuất hàng hoá đồng loạt. Nếu máy cùng một đời thì cũng cùng kiều dáng và chất lương như nhau. Hiệp nhất là khởi đi từ những cái khác nhau, những cái dị biệt, để hiểu biết tôn trọng và gắn bó hợp tác chung xây. Như

thế mới phong phú đa chiều đa diện đa dạng, như những thành phần khác nhau làm nên một tổng hợp duy nhất hài hoà, như những chi thể khác nhau kết nên một thân mình, như những nốt nhạc cung bậc khác nhau làm thành một hoà âm tròn đầy.

 

Hiệp nhất cũng không phải là cầu toàn mười phân vẹn mười gọt giũa kỹ càng theo một hình mẫu, làm như tuỳ thuộc hoàn toàn vào ý chí con người mà không cần biết đến những biến số mang tính quyết định khác. Xây dựng một công trình vật thể như nhà cửa phòng ốc không ưng ý, người ta có thể đập bỏ để làm lại một cái mới vừa ý hơn, nhưng xây dựng một công trình phi vật thể nhất là lại liên quan đến yếu tố nhân sự thì không thể một sớm một chiều mà phá huỷ hoặc làm lại được. Nếu “duy ý chí “ đã là một lực cản đáng buồn cho sự tiến bộ, thì ở đây xem ra lại còn đáng buồn và đáng ngại hơn.

 

Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự dẫn dắt linh động của ơn thánh và chí bền khát khao của mọi thế hệ. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

 

Nhưng đa dạng cũng đi liền với đa đoan. Không thể có hiệp nhất mà không vất vả. Hiệp mà không nhất chỉ là khiên cưỡng ép duyên bất hạnh ngục tù. Nhất mà không hiệp sẽ cứng cỏi lạnh lùng tự đủ thờ ơ. Hiệp để trở nên nhất và nhất mà vẫn luôn cần chất keo tinh thần của hiệp, đó mới là giá trị làm nên nét đẹp Kitô giáo. Nếu trong tình yêu hôn phối, những điều giống nhau là để hiểu nhau, còn những điểm khác nhau mới để yêu nhau, thì trong hiệp nhất Giáo hội cũng vậy, những điều giống nhau là nền tảng gặp gỡ, còn những điểm khác biệt lại là điều kiện tự nhiên để trở thành đa dạng, cho dẫu nhiều khi vì quá chú tâm đến những khác biệt người ta đã phải gạt lệ nhìn nhau xa cách. Hai cực nam châm giống nhau sẽ đẩy nhau, nhưng hai cực khác nhau mới thu hút gắn bó với nhau.

 

Tóm lại, Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội. Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác. Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.

 

Giuse Vũ Duy Thống

Giám mục Phụ tá Giáo phận Sài Gòn

 

CON ĐƯỜNG THOÁT ÁCH TỘI LỖI


(Chúa Nhật XI C – 2Sm 12,7-10.13; Gal 2,16.19-21; Lc 7,36-8,3 )


Đề tài tội lỗi xem ra quen thuộc với tôn giáo, cách riêng với Kitô giáo. Nhiều người thời nay lại muốn chối bỏ thực tại này. Vì hễ nói đến tội là dường như làm giảm giá trị con người một cách nào đó. Sao lại cứ mãi bàn đến chuyện tiêu cực ! Thế nhưng, thông tin đại chúng lại thích bám vào đề tài này để câu khách. Chuyện tốt thì ai cũng thích nhưng người ta lại thích tò mò với những gì mang tính “xí căng đan” hơn. Dù sao đi nữa, chúng ta không thể chối bỏ sự hiện diện của điều xấu giữa xã hội này, thế giới này và nhất là nơi chính bản thân mình.


SỰ HIỆN HỮU CỦA TỘI VÀ TÌNH TRẠNG BẤT LỰC CỦA CON NGƯỜI :


Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm :“Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi” ( Tv 50 ). Có đủ một chút lý trí thì con người đã thấy mình dễ nghiêng chiều với điều xấu. Cha ông ta cũng đã nhận ra hiện trạng này : “Đa thọ, đa nhục. Đa phú, đa ưu”. Càng giàu có càng thêm băn hăn, bó hó. Tuổi đời càng cao thì tội lỗi càng ngập đầy. Là Kitô hữu, chúng ta thừa nhận điều ấy. Xin thương xót con là kẻ có tội, một điệp khúc được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Thánh Lễ và các cử hành Phụng vụ. Ngoại trừ Đức Maria, thì trong kiếp thọ tạo này, khi đã đủ năng lực chịu trách nhiệm về hành vi của mình, thì ai ai cũng đã từng phạm tội và có thể sẽ phạm tội. Quyền cao chức trọng như vua Đavit cũng có tội (x. 2Sm 11-12 ). Ông đã phạm thứ tội đáng tử hình : giết Uria để cướp lấy vợ ông ta, bà Betsabê. Thấp cổ, bé phận hay vô danh như người phụ nữ trong bài Tin Mừng Lc 7,36-8,3 cũng có tội. Nam hay nữ đều có thể phạm tội. Thánh Phaolô thú nhận :“ Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm…Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ?” ( Rm 8,19-24 )

 

Mỗi niềm tin tôn giáo đều có một phương pháp, một con đường giải thoát. Anh em Phật tử thì chọn con đường “giác ngộ, từ bi, hỉ xả ”, người theo Lão Trang thì chọn con đường “vô vi”, người theo Đức Khổng thì chọn cách thế sống “chính danh, chính phận”. Còn Kitô hữu chúng ta thì sao ? Thánh Tông Đồ dân ngoại khẳng định rằng nỗ lực của con người xưa nay trước tình trạng tội lỗi của chính mình, hay của xã hội xem ra đành bất lực. Dù tuân giữ các lề luật, dù thực thi nhiều công quả cũng không thể tự mình làm cho mình nên công chính, nghĩa là nên thanh sạch (x. Gal 2,16-18 ).


Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng mà không có sự gì là không thể được ( x.Lc 1,37). Bằng Lời mạc khải và bằng chính Ngôi Lời nhập thể, nhân loại có được con đường giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đó là con đường cởi bỏ chiếc áo, cởi bỏ mặt nạ, cởi bỏ tâm hồn.


CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT :


1.Cởi bỏ chiếc áo, cởi bỏ mặt nạ để hiện diện trước mặt nhau bằng sự trung thực, hiện diện trước nhan Thiên Chúa với lòng thành thật. Đây chính là vi khiêm hạ. Đavít, dù là một quân vương vị vọng, đã chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình trước Tiên Tri Nathan. Tôi đã phạm tội. Không một chút quanh co, lấp liếm hay bào chữa. Và Thánh vương đã tự thú nhận trước nhan Thiên Chúa con người tội lỗi của mình. Thánh Vịnh “ Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con” ( Tv 50 ) chính là tâm tình của Đavit.

 
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng, khi can đảm bước vào nhà của một người đáng kính, với sự hiện diện của nhiều người tự cho mình là công chính, cũng đã mặc nhiên tự thú hiện trạng tội lỗi của mình. Chân thành nhìn nhận mình là kẻ có tội cách khiêm hạ là một cách thế lôi kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa hữu hiệu. Chúa yêu thương và nhậm lời kẻ khiêm nhu. Người thu thuế vào Đền thờ không dám ngước mặt lên chỉ biết đấm ngực thú lỗi : lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội. Anh ta ra về và được nên công chính ( x Lc 18,9-14 ).


2. Cởi bỏ tấm lòng để trao dâng cho tha nhân và hiến dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì mình là, mình có, mình gắn bó, đó là cách thế để nên trong sạch. Chúa Giêsu đã từng minh định với người biệt phái đã mời Người dùng bữa rằng : “ Thật, nhóm Pharisêu các người. Bên ngoài chén dĩa thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? Tốt hơn, hãy bố thí những gì bên trong thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các người.” ( Lc 11,39-41 ) Chị phụ nữ vô danh tại nhà ông Simon đã hiến dâng cho Chúa Giêsu những gì quý nhất của chị để tỏ lòng yêu mến. Với người phụ nữ, nước mắt là một vũ khí lợi hại. Biết bao anh hùng đã chết chìm trong dòng nước mắt của giai nhân. Thế mà chị đã dùng nước mắt để tưới đẫm chân Chúa Giêsu. Cái răng, cái tóc là gốc con người. Với phụ nữ, giới được gọi là phe tóc dài thì mái tóc lại càng quý giá và lợi hại khôn xiết. Thế mà, chị phụ nữ lại dùng chính mái tóc mình để lau đôi bàn chân từng rong duỗi khắp các nẻo đường Palestin của Chúa Giêsu. Chỉ trong tình yêu dạt dào mới có hành vi này. Đôi môi người phụ nữ là phần thân thể được gìn giữ và tô điểm cách đặc biệt. Nó vừa là nơi biểu lộ xúc cảm cũng như trao ban tình cảm. Thế mà chị phụ nữ đã đặt nó trên bàn chân của Chúa Giêsu. Lại thêm dầu thơm hảo hạng nữa chứ. Một vũ khí bên ngoài hỗ trợ rất đắc lực cách đặc biệt cho nữ giới. Chị ta lại đổ trên chân Chúa. Có thể nói, vì yêu, chị phụ nữ đã trao dâng cho Chúa Giêsu tất cả. Chị đã yêu mến nhiều và đã được tha thứ nhiều.


Con đường để được giải thoát khỏi cảnh nô lệ, để được nên công chính, đã mở ra. Xin tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta trong kiếp lữ thứ này, dù khó có thể tránh lỗi lầm, nhưng luôn biết chân thành khiêm nhu hiện diện trước nhau một cách chân thành, hiện diện trước nhan Chúa cách trung thực. Càng thêm tuổi, càng thêm quyền chức, càng nhiều danh vọng, người ta càng dễ có khuynh hướng “đeo mặt nạ” với nhau và có khi “tô son” trước nhan Thiên Chúa. Thần Dữ, cha của sự gian dối, rất thích sử dụng vũ khí này để kìm hảm chúng ta trong tội. Để có thể can đảm sống trung thực, ước gì có được một một môi sinh tràn đầy tình yêu khoan thứ. Chính bởi cái nhìn bất bao dung, cái nhìn thích kết án của ta một cách nào đó giam hảm tha nhân trong sự gian dối, trong sự giả hình. Ước gì chúng ta biết mở con tim, quảng đại trao dâng cho nhau, quảng đại hiến dâng cho Thiên Chúa những gì quý giá, gắn bó thiết thân để bày tỏ tình yêu thương. Không có con đường nào đẹp hơn con đường này. Vì “ Tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi” ( 1P 4,8 ). Và “Yêu thương thì chu toàn mọi lề luật” ( Rm 14,10 ).

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Giáo Hội với hình ảnh cái rìu, cái nia và cái quốc


Cái rìu và cái quốc, nơi làm vườn ruộng trồng trọt cây cối lúa mạ, là vật dụng rất cần thiết.

Cái rìu để chặt đốn cây to nhỏ đã khô kéo, hay cành lá cây mọc che khuất ánh sáng thửa ruộng khu vườn...

Cái nia để sàng phân biệt thóc lúa lép ra móc góc hay cho lọt xuống bên dưới, thóc lúa mẩy nằm lại trên mặt nia sàng. Hạt lúa lép hay trấu cỏ đem đốt hay đổ ra hố chôn làm phân. Còn hạt lúa mẩy đổ vào kho làm lương thực cho nhu cầu ăn uống sinh sống.

Hay ngày xưa ở nhà quê, còn xay lúa gạo bằng cối xay tay. Sau khi xay lúa gĩa gạo xong, người ta cũng dùng sàng nia chọn tách gạo ra khỏi cám. Gạo còn nhằm lại trên nia sàng thì dùng để nấu cơm cho người. Còn cám lọt xuống khỏi nia sàng để nấu cho súc vật ăn.

Cái quốc để xới đất cho khí trời ánh sáng mặt trời thẩm hút xuống làm mới lại đất, và dễ nhổ cỏ mọc lan tỏa khắp mặt đất.

Ba vật dụng này có liên quan gì tới đời sống đức tin trong Giáo Hội chúng ta không?

1. Thánh Gioan Tiền Hô và cái rìu cùng cái nia sàng.

Các Thánh trong Gíao hội được tôn kính cầu thay nguyện gíup cho con người, được mừng kính thông thường vào ngày các ngài qua đời, còn gọi ngày sinh ra của các ngài ở trên nước Thiên đàng.

Nhưng ngoài Chúa Giêsu Kitô, ngày sinh nhật 25.tháng 12. hằng năm; và Đức Mẹ Maria sinh nhật ngày 08.tháng 09. hăng năm, chỉ có Thánh Gioan Tiền hô được mừng kính vào ngày sinh nhật, ngày 24.tháng sáu hằng năm.

Ngày sinh ra chào đời của Thánh Gioan tiền hô trên trần gian vào thời gian giữa năm. Theo thời tiết mùa màng ở những xứ đất nước có bốn mùa nóng lạnh thay đổi rõ rệt như bên Âu châu, bên Bắc Mỹ châu, thời gian tháng Sáu giữa năm là cao điểm của mùa hè, ngày dài đêm ngắn. Cũng còn gọi thời điểm này là thời điểm bản lề, đang xoay chuyển từ tràn đầy ánh sáng nóng nực mùa hè dần dần sang bóng tối mùa thu đông, mà cao điểm vào ngày 25. tháng 12.

Mừng ngày sinh nhật, 24.06,. của Thánh Gioan vào mùa thời điểm này, Giáo Hội nhắc nhớ tới hình ảnh cái rìu, cái nia sàng lúa gạo trong sứ điệp của Thánh Gioan tiền hô.

Trong sa mạc, Thánh Nhân trải qua đời sống ăn chay nhiệm nhặt từ cách ăn uống, ăn mặc cho tới lời nói đời sống đức tin:

„Dân chúng lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.9 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa."

10 Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây? "11 Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.". ..15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi."18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.“ ( Lc 3,7-18)

Đời sống con người được Chúa tạo dựng nuôi dưỡng. Nhưng sự tự do và tội nguyên tổ đã biến đời sống con người đi vào những vướng mắc sai lạc, những nghi ngờ, những chiều theo sỡ thích làm vui tai thích mắt thỏa mãn lòng tư dục, kiêu ngạo lấy mình làm chuẩn đích...

Sứ điệp cái rìu cái nia sàng của Thánh Gian Tiền hô, có vẻ vang vọng lên sự đe dọa không có gì là vui thú.

Không đâu, những lời nói hình ảnh đó của Thánh Gioan tiền hô là tiếng cảnh tỉnh nhắ nhở cho ta trở về với con đường đời sống chân chính ngay thẳng. Con đường đời sống đức tin vào Chúa và tình người với nhau trong đời sống

Tiếng kêu gọi bằng hai hình ảnh cảnh giác đó sửa soạn cho con đường, mà ngài chỉ lối đến cùng „con Chiên Thiên Chúa“, Đấng đến loan báo một điệp niềm vui.

2. Con Chiên Thiên Chúa và cái quốc

Chúa Giêsu, con chiên Thiên Chúa, sinh ra vào đêm tối ngày 25.tháng 12., không chỉ tối về không gian thời tiết mùa đông, nhưng còn bóng tối tội lỗi sự xấu bao trùm tâm hồn con người. Ngài không sợ ngại bóng tối đó. Ngài cũng không xóa bỏ bóng tối đó. Trái lại Ngài mang ánh sáng chiếu soi vào đêm tối đó. Đêm tối càng dầy đặc, ánh sáng chiếu tỏa ra càng sáng rõ.

Ánh sáng Ngài chiếu soi tới là ánh sáng tình yêu, ánh sáng tha thứ làm hòa giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Chỉ với ánh sáng tình yêu, ánh sáng tha thứ làm hòa mới làm cho đời sống có bình an cùng niềm vui, sinh hoa qủa.

Chính vì thế, Ngài dùng hình ảnh cái quốc loan báo sứ điệp niềm vui trong dụ ngôn : "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?8 Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi." ( Lc 13,6-9)

Như thế, Thánh Gioan tiền hô với sứ điệp hình ảnh cái rìu và cái nia sàng, là hình ảnh của người khai khẩn phát quang cho khu vườn thửa đất không bị che khuất, không còn bị rễ cây ăn hết mầu mỡ của đất.

Chúa Giêsu Kitô đến là con chiên Thiên Chúa, Ngài dùng hình ảnh cái quốc vun xới cho đất có khí trời cùng ánh nắng chiếu dọi tới làm mới đất lại, khiến đất trở nên mầu mỡ.

Từ hơn hai nghìn năm nay, nhiệm vụ loan báo sứ điệp với hình ảnh cái rìu, cái nia sàng và cái quốc, Chúa Giêsu trao cho người mẹ Giáo Hội ở trần gian tiếp tục sống gìn giữ cùng hướng dẫn con người sống theo con đường đó.

Từ đền thánh Đức Mẹ Fatima, bên Portugal, ngày 13.06.2007

Kỷ niệm lần thứ hai Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên cách đây 90 năm.

LM. Nguyễn Ngọc Long

 

 

THỜI WTO, ĐE DỌA HAY CƠ MAY CỦA ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

 

 

Trong bầu khí kinh tế thị trường, chẳng những chúng ta có thể khám phá ra được những nguyên lý vận hành tốt đẹp trong đời sống đức tin của người tín hữu công giáo, nhưng còn có cơ may định hướng một cách chân thật hơn trong nỗ lực mục vụ của các người lãnh đạo trong Giáo hội trong thời đại mới ; nhất là cơ may khám phá những giá trị đích thực của Tin mừng. Bởi vì cơ cấu của một nền kinh tế thị trường, hoặc mạnh hơn nữa là cơ cấu cạnh tranh khốc liệt của thời đại WTO, mặc dù trước mắt có thể làm suy yếu nếp sinh hoạt rầm rộ quen thuộc của Giáo hội, nhưng đó cũng có thể là một thách đố giúp cho sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam tìm lại khuôn mặt nguyên tuyền hơn của mình.

 

  1. Một sự thay đổi theo chiều hướng tôn trọng “Thượng đế” hơn.

 

Thời kinh tế thị trường, nhất là thời kinh tế hội nhập vào trào lưu kinh tế của thế giới, thời đại WTO, là thời đại người bán hàng phải hết sức tôn trọng khách hàng, tôn trọng như “thượng đế” vậy. Nguyên tắc ấy trước tiên, biểu lộ một sự đảo ngược trọng tâm của vận hành kinh tế ; chính nhu cầu của người tiêu dùng mới là điểm qui chiếu của hoạt động kinh tế chứ không phải một chương trình ít phản ảnh được nhu cầu thực sự. Có lẽ điều trước tiên sẽ xảy đến trong sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam là : sống trong bầu khí ấy, chắc chắn càng ngày người tín hữu sẽ nhận ra sự phi lý, hoặc sự nặng nề của tổ chức trong Giáo hội Việt Nam, đặc biệt là những giáo xứ hoặc những giáo phận ít nhiều mang tính cách “toàn tòng”, chúng ta có thể thấy hầu hết vẫn vận hành theo kiểu lấy ý muốn của cha xứ làm trọng tâm, hoặc đặt ưu tiên cho một trật tự ổn định, một nề nếp quen thuộc của giáo xứ hơn là đáp ứng những hoàn cảnh thực tế của đa số người tín hữu. Những hoàn cảnh cá biệt thì dĩ nhiên là bị loại trừ không thương xót. Các linh mục, và cả các giám mục hình như vẫn quen đánh giá một tập thể trong Giáo hội theo tiêu chuẩn nề nếp chung, trật tự chung, một thứ “chủ nghĩa xếp hang”  nào đó buộc mọi người phải đáp ứng những đòi hỏi như nhau để được những ân huệ như nhau. Sinh hoạt giáo xứ chỉ được quan tâm ở những tổ chức, những sinh hoạt chung chứ ít khơi lên và nuôi dưỡng được một “ khung trời” tự do nội tâm, một thứ “bản lãnh”  nội tại của người tín hữu trong đời sống đạo, và như thế “ đạo sinh hoạt”, treo đời sống đức tin của mình vào những tổ chức, những sinh hoạt đao đức chứ không thực sự sống đức tin như một người trưởng thành.

 

Thứ đến, ta có thể thấy rằng quyên tắc tôn trọng “thượng đế” của nền kinh tế thị trường cũng phản ảnh một chút tinh thần của Tin Mừng, của tinh thần Tân Ước, nghĩa là tinh thần của người mục tử đi tìm con chiên lạc chứ không phải chờ con chiên trở về; chỉ có điều nếu châm ngôn khách hàng là “thượng đế”  của nền kinh tế thị trường nhằm o bế những người có tiền, thì tinh thần của Tin mừng lại đòi hỏi người mục tử quan tâm đến những người nghèo, nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, trong đời sống của Giáo hội Việt Nam, chúng ta nhận thấy, nói chung, người mục tử ít tôn trọng nhu cẩu riêng của người tín hữu. Nhất là những “người nghèo”, những người có hoàn cảnh riêng biệt thì thường không được tôn trọng và không được lắng nghe để tìm được cách giải quyết. Giáo quyền thì thường giải quyết vấn đề theo kiểu “không kiểm soát được thì cấm”; biện pháp ấy có thể ngăn chặn được một số lạm dụng, nhưng cũng luôn bao hàm những áp đặt oan ức cho một số người khác, những người có hoàn cảnh khó khăn thực sự, những “người nghèo” thực sự, những người có nhu cầu thực sự cần được linh động giải quyết. Một số giáo phận và một số cha xứ không muốn hoặc hạn chế tối đa việc giải quyết phép chuẩn hôn nhân chẳng hạn, theo tôi, đó là một thứ biện pháp giải quyết theo kiểu “không kiểm soát được thì cấm”.

 

Không kể những lý do về não trạng, về đạo đức, theo phân tích xã hội, chúng ta có thể nhận ra lý do sâu xa của tình trạng nói trên cũng chính là qui luật cung–cầu. Nếu xét theo qui luật cung cầu thì trong Giáo hội Việt Nam hiện nay, người linh mục không cần giáo dân mà giáo dân cần linh mục; nghĩa là cung không đủ cầu. Chính điều đó làm cho người linh mục càng ngày càng ít quan tâm dđến việc “lên đường đi tìm con chiên lạc”, ít nỗ lực xoay sở để loan báo Tin mừng; nhưng thường thoả mãn nhu cầu tâm linh của người giáo dân một cách bất đắc dĩ; hoặc đạo đức hơn thì cũng dừng lại ở mức độ một người mục tử liêm chính, chu toàn trách nhiệm đòi hỏi của một người công chức. Những tính cách như thế khác xa mẫu mực của người mục tử mang ngọn lửa của sứ vụ trong tim. Tình hình mất quân bình theo luật cung cầu như thế làm cho người linh mục cũng như những sinh hoạt trong giáo xứ rất dễ tiến theo kiểu ban phát, theo cơ chế xin cho như chúng ta thấy trong xã hội thời kinh tế bao cấp trước đây.

 

  1. Khám phá nhu cầu thật của người tín hữu.

 

Khi người nông dân không có khả năng để đi vào thời đại cơ khí hoá, anh ta vẫn “trung thành” với con trâu. Thế nhưng trong tình hình chung của nền sản xuất cơ khí hoá, anh nông dân sẽ phải nhìn sang mảnh ruộng bên cạnh, để thấy chiếc máy cày đi quá mau, cầy xới đất quá tốt, rồi anh ta đâm ra bực tức, quát nạt con trâu già của mình để nó đi nhanh hơn, cầy xới đất tốt hơn. Thế nhưng, com trâu không thể nào trở thành chiếc máy cày được; con trâu ì ạch kéo cày và lãnh nhận những đòn roi vô lý từ anh nông dân chậm tiến. Đó là thứ bệnh tạm gọi là bệnh “ quát nạt những con trâu già”; bệnh của những người “mục đồng” không theo kịp được diễn tiến mới của thời đại, không đủ sức” leo lên máy cày” để hướng dẫn người tín hữu trong thời đại mới, và để bù trừ thì người mục tử ấy trút tất cả nỗi giận của mình lên những con trâu khốn khổ, dựa theo những thói quen của một thời đại đã qua : phải ăm mặc đồng phục khi đi lễ, không được đi lễ trễ, phải ngồi vào hàng nghế trên, phải xưng tội vào đúng giờ qui định, phải làm thủ tục hôn phối đúng giấy tờ…; người mục đồng ấy trách móc người tín hữu không tha thiết với việc nhà thờ, người mục đồng ấy kêu than người tín hữu đam mê kiếm tiền và ham mê thăng tiến thế gian…; người mục đồng ấy không hiểu được những thúc bách gay gắt của thời đại mới, những nhu cầu chính đáng, những thách đố gay gắt của con người trong thời đại đau thương và cả những hoàn cảnh bi đát khiến nhiều người không thể vào nhà thờ đúng giờ, không thể lên hàng nghế trên để ngồi cách thanh thản, không thể đi xưng tội đúng giờ…

 

Chúng ta có thể thấy rõ là Giáo hội Việt Nam chưa có, hoặc chưa có một cách phổ biến, việc nghiên cứu mục vụ có tính cách “khoa học” để có thể “cảm” được những biến động sâu xa trong tâm hồn con người trước tác động của thời đại mới, nhất là không có được những đường hướng có tính chiến lược trong kế hoạch mục vụ của mình. Hình như các đấng bậc có trách nhiệm cao nhất trong Giáo hội Việt Nam ít dám nghĩ và dám làm, nên không thấy được những vấn đề trong Giáo hội của mình và cũng không đưa ra được một đường hướng rõ rệt nào cả. Điều ấy khiến những người có trách nhiệm thường đưa ra những biên  pháp “kỷ luật” không nhằm một chiến lược nào cả mà chỉ là những biện pháp có tính cách đối phó tình thế; và đó chính là mảnh đất tốt cho căn bệnh “quát nạt những con trâu già”.

 

Chẳng hạn chúng ta có thể thấy rõ Giáo hội Việt Nam nói chung và người tín hữu nói riêng quá thiếu sót trong khía cạnh sống chứng tá Tin mừng giữa trần thế ; hầu hết các hội đoàn của chúng ta mang tính cách của một thứ hội đạo đức nhiều hơn là sống tinh thần công giáo tiến hành, nghĩa là qui tụ người tín hữu thuộc đủ mọi thành phần vào những việc đạo đức như nhau chứ ít khi giúp cho người tín hữu sống Tin mừng trong nghề nghiệp, trong môi trường sống của mình như một lời chứng. Chẳng hạn người tín hữu trong Giáo hội Việt Nam thường “treo’ đời mình vào sinh hoạt chung hơn là sống đức tin với sự tự chủ, tự nguyện từ chính bản thân ; từ đó, người tín hữu đạo đức dễ trở thành những người vui với những sinh hoạt đạo đức chứ không  phải là những người thực sự có mối tương quan sống động với Chúa Giêsu; điều đó làm cho người tín hữu đọc kinh giỏi chứ không biết cầu nguyện và hết giờ sinh hoạt của nhà thờ thì không biết làm gì. Chẳng hạn người tín hữu Việt Nam thường tìm cách chu toàn lề luật hoặc né luật chứ không biết sống với Chúa trong một lương tâm sáng suốt và ngay thẳng; chẳng hạn người tín hữu Việt Nam không có khả năng sáng tạo bản thân để đáp lại thánh ý Chúa đối với mình. Những nhân định như thế, nếu được đón nhận một cách khoa học hơn, nếu được đưa vào  trong chiến lược phát triển của Giáo hội, thì chúng ta cần có những lối mở:chẳng hạn khuyến khích tạo bầu khí thinh lặng trong phụng vụ, khuyến khích việc chầu Thánh Thể riêng, tập cho các tín hữu biết đọc Kinh Thánh trong suy niệm và cầu nguyện ; chẳng hạn nên để rộng một số quy định để người tín hữu tập dần biết sống với Chúa trong sự tự chủ của lương tâm mình nhiều hơn.

 

  1. Cơ may thể hiện những giá trị chân chính của Tin mừng.

 

Tôi thường nghĩ rằng một Giáo hội không mang trọng trách loan báo Tin mừng, một Giáo hội mà cán cân truyền giáo không cân xứng, thì những thành phần trong Giáo hội ấy, linh mục và tín hữu, thay vì nhận thấy những giá trị nhân bản Kitô đích thực để giới thiệu cho người khác, ta sẽ chỉ quanh quẩn xét nét nhau trong nội bộ và tạo ra bao nhiêu những lễ nghĩa rườm rà mà thôi. Giáo hội đóng kín ấy thích đề cao chuyện đánh giá hơn thua ; tô vẽ những sinh hoạt hình thức rầm rộ; đặt ra nhiều qui luật dòi hỏi nhau một cách khó khăn. Những yếu tố như thế chúng ta có thể thấy rõ trong các xứ đạo “toàn tong” hoặc những giáo phận có nhiều tính cách “toàn tòng”.

 

Cũng thế, với thách đố của bầu khí kinh tế thị trường, người mục tử không thể dễ dàng đưa ra những áp đặt kỷ luật theo kiểu từ trên xuống, nhưng luôn phải khám phá nét đẹp của Tin mừng để giới thiệu, để mời gọi, để thuyết phục; người tín hữu sẽ nhạy bén hơn để thấy được cái kỳ cục trong lối sống của mình. Trong bầu không khí kinh tế thị trường, người ta luôn hy vọng vào một lời đáp trả tự nguyện của “người tiêu dùng”. Bầu không khí “cạnh tranh” như thế buộc người mục tử phải đi vào “cuộc chơi” một cách bình đẳng hơn.

 

Một cách nào đó, nền kinh tế phân phối vận hành theo hướng :”cái thiện” được chuyển tải theo nẻo đường “cái chân”  để đến với người tiêu dùng ; vận hành ấy dễ trở thành một sự áp đặt của bên sản xuất đối với bên tiêu dùng. Trong khi đó, vận hành của nền kinh tế thị trường lại đi theo chiều hướng’ cái thiện” chọn con đường “cái mỹ” để kêu gọi, để “ quyến rũ”  được sự đáp ứng của người tiêu dùng ; vận hành này mang tính cách của một cuộc “đối thoại”  bình đẳng nhằm tìm ra chân lý. Trong đường hướng của nền kinh tế phân phối, người ta đã có sẵn “cái thiện” từ trước, người ta xác tín vào “cái thiện” ấy và tìm biện pháp buộc người khác phải chấp nhận bằng một hệ thống ý niệm chặt chẽ. Ngược lại, trong đường hướng của nên kinh tế thị trường,  “cái thiện” của tôi được đưa vào cuộc thử luyện, vào cuộc cạnh tranh trên bình diện giá trị ( cái mỹ)  để có thể  tự chứng tỏ  phẩm chất của mình. Khi mà nhu cầu cuộc sống trở nên phong phú và đa dạng, người ta không chỉ cần ăn no mặc ấm, nhưng cần ăn ngon mặc đẹp, thì đường lối của nền kinh tế phân phối không thể đáp ứng được nữa, nhưng chính tính cách năng động của nền kinh tế thị trường mới có thể tạo ra được mối tương quan sòng phẳng hơn giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cũng như sáng tạo ra dược những hàng hoá tích hợp cho nhiều nhu cầu mới.

 

Chúng ta có thể thấy một qui luật vận hành tương tự như vậy trong đời sống Giáo hội. Trong một giáo xứ toàn tòng chẳng hạn, các linh mục thường áp dụng đường lối của một thứ “ kinh tế phân phối” trong cách tổ chức và sinh hoạt; trong đó, có rất nhiều những qui định chẳng những làm khó cho người tín hữu nhưng nhất là còn làm lu mờ các giá trị nhân bản cũng như những giá trị cứu độ của Tin mừng. Ngược lại, khi phải đối diện với người khác tôn giáo, hoặc khi  phải đối diện với bầu khí kinh tế thị trường mà trong đó có rất nhiều giá trị khác, nhiều tổ chức khác có thể quyến rũ tâm hồn con chiên, thì người mục tử sẽ thấy phải làm sáng nét đẹp tinh tuyền, cao quý của đạo Chúa.

 

Quả thật, nhiều linh mục, và cả nhiều tín hữu nữa, đã quá quen với cơ chế xin– cho, quen với mối tương quan bề trên- bề dưới, quen với cung cách dòi hỏi chứ không chịu luỵ phiền, quen  với sự khoái trá đưọc phục vụ chứ không phải phục vụ…và không nhận ra được nhiều sự kỳ  cục thậm chí đến mức quái dị đi ngược lại hoàn toàn với tinh thần Tin mừng. Có thể chính bầu  không khí mới của nền kinh tế thị trường, bầu khí cạnh tranh gay gắt của thời đại WTO sẽ là những yếu tố tạo nên một sự cải tổ bắt buộc đối với những môi trường Giáo hội; và như thế, cũng có nhiều cơ may làm sáng lên nhiều giá trị đẹp của Tin mừng Đức Giêsu hơn.

 

Tạm kết.

 

Bầu khí kinh tế thị trường trước hết sẽ trở thành một lời chất vấn đối với nếp sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam. Khi người tín hữu không tìm thấy được trong Giáo hội những đáp ứng cho nhu cầu tâm linh chân chính và có  tính nhân – thân của mình,  thì sẽ có một số người bỏ Giáo hội, hoặc tìm đến những giải đáp khác ; và khi mà các người có trách nhiệm trong Giáo hội không “trả lời” được cho lời chất vấn ấy một cách tự nguyện, thì sẽ đến lúc chính qui luật cung cầu sẽ trở thành một qui luật khách quan buộc Giáo hội Việt Nam phải thay đổi cung cách của mình; nghĩa là khi mà người tín hữu ngán ngẩm và không còn nhiều nhu cầu về tôn giáo nữa, hoặc đúng hơn người tín hữu không còn chấp nhận được tính cách bị bó buộc trong Giáo hội, thì các đấng bậc trong giáo hội mới cuống cuồng chạy theo để vớt vát. Có người đã phải nói rằng :  tôi sốt ruột vì chưa thấy Giáo hội Việt Nam suy sụp. Đó không phải là lời của một người chủ trương xoá bỏ tôn giáo, nhưng là nỗi lòng của một linh mục nhận thấy rằng : vì Giáo hội Việt Nam không có vị thánh để thực hiện được một sự cải tổ từ bên trong, thì đành phải chấp nhận qui liật gay gắt của một sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường để có được một sự cải tổ bắt buộc từ bên ngoài vậy.

 

 

Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP

 

TIỀN KHÔNG TÂM –TIỀN TANH

 

Sau sự kiện bánh phở có chứa phooc–môn, rau ngâm thuốc trừ sâu loại mạnh của Trung Quốc mới có hiệu lực vì sâu đã lờn thuốc của Việt Nam, nay lại đến nước tương đen, một món khoái khẩu của người Việt đang có vấn đề.

 

Qua nước tương Chin–su, dư luận dần dần khám phá ra tận trong “thâm cung bí sử”của những sản phẩm nước tương, có chứa chất MCPD– chất gây ung thư. Người dân bàng hoàng về 20 cơ sở sản xuất nước tương có chất gây ung thư thì ít, nhung phẫn nộ và đòi kiện ra toà nhiều hơn khi biết rằng ngành y tế Tp. HCM dù biết những cơ sở sản xuất nước tương có chất độc hại vượt mức cho phép, nhưng vẫn “ém nhẹn suốt 6 năm” (Báo Tuổi Trẻ thứ sáu, ngày 25.5.2007, trang 1). Tại sao lại “ém nhẹm” vấn đề nhạy cảm như vậy !

 

Dù có biện minh bằng ngôn từ nào đi nữa thì cũng phải chân nhận rằng đồng tiền có sức huỷ diệt quá mạnh và quá sâu đến mọi sinh hoạt đời sống con người, từ kinh doanh, giáo dục, y tế và cho đến mọi sinh hoạt đời sống con người là lương tâm.

 

Chính lương tâm cũng không thoát khỏi vòng cương tỏa của đồng tiền. cái mất lớn nhất mà xã hội phải gánh chịu là mất lương tâm. Dù xã hội không thấy mất lương tâm nhưng những hiện tượng tham nhũng, bớt xén của công, bớt xén tiền cứu trợ, hối lộ, nói dối, đưa đẩy trách nhiệm… là dấu chỉ cho thấy : “sự biệt tâm” của trách nhiệm và sự “biệt tích” của lương tâm”( DS Trần Minh Định, báo TTCN, ngày 10.6.2007, trang 8)

 

Phải chăng : “Nén bạc (đã) đâm toạc tờ giấy” ? Đã biến con người thành kẻ vô tâm và nhẫn tâm đối với chính mình và đồng loại?

 

Tiền không tâm – Tiền tanh.

 

Ai cũng biết “Phi thương bất phú’, kinh doanh phải có lợi nhuận, nhưng lợi nhuận tới mức độ nào và bằng thủ thuật nào là vấn đề phải xét đến. Vì lợi nhuận mà bất chấp vấn đề đạo đức kinh doanh, bất chấp sức khoẻ và sinh mạng của người tiêu dùng đó là một tội ác. Những người được giao nhiệm vụ “giữ cửa’ giữ sức khỏe nhân dân càng phải ‘ bị đánh đòn nhiều” hơn nữa khi cố tình không làm tròn nhiệm vụ được giao.

 

Tác giả Hoàng Hoa thật có lý khi nhận xét “Đứng ở góc độ nhân văn, những hành xử của nhà sản xuất và cán bộ có trách nhiệm của ngành y tế đều không đúng với truyền thống đạo lý của người Việt Nam : Một bên là nhẫn tâm đưa ra sản phẩm có chất độc hại và một bên thấy nguy mà không thông báo, quyết tâm ngăn chặn. Mộ bên vì lợi nhuận mà nhắm mắt làm liều thì đã rõ, bên kia vì cái gì thì dư luận cũng tự tìm ra câu trả lời. Một bên vi phạm đạo đức kinh doanh thì bên kia vi phạm pháp lệnh cán bộ Công chức ‘( Báo NLĐ, ngày 28.5.2007, trang 1 và 2)

 

Dường như “Ăn”, “Bôi trơn’ , “Có khó mới ló ra tiền”…đã thấm nhiễm vào mọi lãnh vực của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà người ta có những câu nói mỉa mai : “ Thủ tục đầu tiên (tiền đâu)’, “Tiền trao, cháo múc’, “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”. Dần dần, đồng tiền đã được con người phong thánh thành “ Tiên thành…”

 

Nhưng đồng tiền không phải là ông chủ tốt, cũng không phải là người bạn tốt và trung thành. Chẳng thế mà các cụ ngày xưa vẫn thường khuyên con người phải cẩn thận với hai điều này : “Thứ nhất chơi Tiên, thứ nhì giỡn Tiền”. Đồng tiền cũng có cách chơi khăm của nó. Những người sản xuất nước tương làm giàu trên sinh mạng của người khác, những người được giao phó sức khỏe của người dân mà không làm tròn bổn phận thì điều gì xảy ra ? Niềm tin không còn nữa, thương hiệu nước tương sẽ khó lấy lại vị thế sẵn có, người có trách nhiệm kiểm định mất lòng tin nơi dân chúng. Một người mà tiếng nòi không có giá trị, nói ra một lời mà người nghe đặt câu hỏi có thật không, có đúng không hay phải giảm 70% là vừa…thì thử hỏi giá trị của người đó như thế nào? Một mất mát quá lớn. Luỵ kim lụy tiền cũng có giá của nó. Tiền không tâm nó tanh mà.

 

Trong tiền cần có tâm

 

Đất nước chúng ta đã là thành viên của tổ chức WTO và đang có những bước tiến nhanh trên con đường phát triển kinh tế. Chắc chắn một đất nước sẽ giàu hơn và tương lai tươi sáng hơn. Nhưng sự phát triển của kinh tế lại không đồng bộ với sự phát triển của lương tâm con người và những giá trị đạo đức thí có ích gì. Nhất là trọng trách được giao khoán vào tay những người không có lương tâm thì mức độ thiệt hại đến mức nào?

 

Ai cũng phải nhìn nhận ”Có tiền mua tiên cũng được”, nhưng không phải mua tiên bằng bất cứ cách nào.Những vụ án kinh tế nổi cộm, chạy dự án, tham nhũng, cướp tiệm vàng…đều liên quan đến đồng tiền. Những đồng tiền không bằng sức lao động chân chính làm ra ; những đồng tiền không có tâm thì cũng có ngày đội nón ra đi, cũng có ngày “của thiên trả địa”.

 

Bên cạnh những đồng tiền tanh cũng còn có những đồng tiền của những người phu quét rác, những đồng xu của các bà goá nghèo để giúp những người bị thiên tai lũ lụt. Đó là những đồng tiền có nhiều tâm nhất vì họ đã cho đi cả cuộc sống của họ.

 

Thi sĩ Nguyễn Bảo Sinh có lần đã viết :

 

“ Khi mê, bùn chì là bùn

Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen

Khi mê tiền chỉ là tiền

Ngộ rồi, mới biết trong tiền có tâm ( Báo Xuân Pháp Luật 2003, trang 45)

 

Những câu thơ trên đây không chỉ để cho những ông chủ cơ sở sản xuất nước tương đen, mà cả giới kinh doanh và thường dân cũng phải suy nghĩ để kiếm tiền và sử dụng đồng tiền cho đúng. Sống làm sao để đồng tiền mình cằm trong tay đừng là đồng tiền tanh,  sống làm sao để đồng tiền có tâm như nhiều người chân chính đang sống và đang làm.

 

Bởi thế, thường xuyên giáo dục lương tâm thật ngay chính là một mệnh lệnh đối với người Kitô hữu. Vì tiếng nói của lương tâm là tiếng nói của Chúa. Tiếng nói đó bảo ta phải làm lành lánh dữ.

 

Hơn nữa “Lương tâm làm cho con người nhận biết một cách tuyệt vời luật mến Chúa yêu người. Trung thành với lương tâm, các Kitô hữu phải liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong xã hội ( GS 16).

 

Tôi rất thích lời kết luận của Thu An trong bài viết Cần một chữ tâm “.. xã hội sẽ phát triển tích cực hơn nếu như người ta luôn nhớ rằng trong chữ tiền còn luôn cần một chữ tâm “ ( Báo Tuổi Trẻ, thứ bảy ngày 26. 5.2007, trang 1 và 4).

 

Lm Đaminh Đặng Quốc Hưng

 

 

 

 

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

 

THÁNH LỄ

Con là một người mới học đạo, con chưa hiểu rõ về thánh lễ nhiều. Xin Cha giúp con. Thánh lễ bao gồm mấy phần ? Bắt đầu từ đâu là hết một phần ? Cha Xứ con hỏi con các hoạt động trong thánh lễ bao gồm những gì ?

Con cám ơn Quý Cha.

Giải đáp

Sách Giáo Lý Công Giáo dậy cho ta biết về Thánh lễ. Con nên mua sách đọc để hiểu rő hơn nhiều điều khác nữa. Cha tóm gọn ở đây để con xem :

Thánh lễ chia làm hai phần nhưng là một thể thống nhất :

- Tập họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện giáo dân;

- Phụng vụ Thánh Thể với việc tiến dâng bánh ruợu; truyền phép với lời kinh tạ ơn và hiệp lễ.

Cộng đoàn tập họp. Các Ki-tô hữu tập họp lại một nơi để cử hŕnh thánh lễ. Chính Đức Ki-tô đứng đầu cộng đoàn; Người chủ sự buổi lễ.

Phụng vụ Lời Chúa gồm các bài đọc rút ra từ "các sách ngôn sứ", nghĩa là từ Cựu Ước, và từ các "ký ức của tông dồ", nghĩa là từ các thư và Phúc Âm. Bài giảng giúp các tín hữu nhận thức đây là Lời Chúa (x. 1Tx 2,11): phải đón nhận và đem ra thực hành trong đời sống. Tiếp đến là lời nguyện tín hữu cầu cho mọi người.

Chuẩn bị lễ phẩm. Người ta mang, đôi khi rước cách long trọng, bánh và rượu lên bàn thờ. Vị linh mục nhân danh Đức Ki-tô, dâng lên Thiên Chúa lễ vật sẽ trở thành Mình Máu Đức Ki-tô.

Kinh nguyện Thánh Thể. Trung tâm và cao điểm của toàn bộ cử hành là Kinh Nguyện Thánh Thể, gồm lời Kinh Tạ Ơn và lời Truyền Phép :

Kinh Tiền tụng, nhờ Đức Ki-tô trong Chúa Thánh Thần, Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn về tất cả công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá.

Trong lời kinh "xin ban Thánh Thần", Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha ban Thánh Thần xuống trên bánh rượu; để nhờ quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Đức Giê-su Ki-tô và để những người lănh nhận Thánh Thể trở thành một thân thể và một tinh thần duy nhất.

Phần truyền phép, nhờ hiệu lực của lời và cử chỉ Đức Ki-tô, cũng như quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô, lễ vật chính Người đă dâng trên thập giá.

Phần tưởng niệm, Hội Thánh tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn, phục sinh và cuộc quang lâm vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô; Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lễ vật của Con Chí Ái, lễ vật giao hoà chúng ta với Người.

Lời chuyển cầu cho thấy hy lễ tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh cả thiên quốc lẫn trần gian, Hội Thánh của những kẻ sống cũng như người đă qua đời; trong sự hiệp thông với các mục tử của Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục địa phận, hàng linh mục cũng như phó tế; và trong sự hiệp thông với các giám mục toàn cầu cůng với Giáo Hội của các ngài.

Kinh Lạy Cha và nghi thức bẻ bánh đi trước phần hiệp lễ.

Phần hiệp lễ, các tín hữu lănh nhận "bánh bởi trời" và "chén cứu độ", là chính Mình Máu Thánh Đức Ki-tô, Đấng tự hiến "để cho thế gian được sống" (Ga 6,51).

KHI RA KHỎI CUỘC ĐỜI NÀY, LINH HỒN CỦA NHỮNG NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA ĐI VỀ ĐÂU ?

Nhiều người chưa biết đạo thánh của Thiên Chúa, có thể hơn phân nửa nhân loại chúng ta. Số đông trong nhóm này được sinh ra, lớn lên qua các giai đoạn của cuộc sống, dĩ nhiên cũng sẽ phạm phải những lỗi lầm thông thường của con người, nhưng không phạm phải những điều trọng như giết người, cướp của, hãm hiếp… Khi ra khỏi cuộc đồi này, linh hồn của những người vừa nói trên sẽ đi đâu? Sẽ được hưởng ơn cứu chuộc nhân loại của Ngôi Hai Thiên Chúa không? Xin cho biết chỉ dạy của Hội Thánh về việc này.

Giải đáp

Anh Quang thân mến,

Quả là cho đến nay hơn phân nửa nhân loại vẫn còn chưa biết đạo thánh Chúa và chúng ta cũng không thể coi họ như những người sẽ phải trầm luân hay bất hạnh vĩnh viễn ở đời sau. Trong những số báo trước tôi cũng đã có dịp nói đến những trường hợp này, nay cũng xin được trình bầy quan điểm của Hội Thánh về những người trong tình trạng không nhận biết Thiên Chúa.

Sách Giáo Lý Công Giáo và Công đồng Vatican II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân đã xác định :

Những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi. ( LG 14)

Tuy nhiên, có những người không vì lỗi mình mà không biết Đức Kitô và Hội Thánh của Người, những người này cũng đáng được hưởng lòng xót thương của Chúa. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 16 đã viết :

Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi.  Cả những kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi

Chúng ta cũng phải giả thiết họ sẽ khao khát lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, nếu họ biết đến sự cần thiết của bí tích này

Với những giáo huấn như trên của Hội Thánh, anh cũng thấy rằng những người trong cuộc sống này nếu vì hoàn cảnh mà không biết Chúa và Hội Thánh Người mà họ sống lương tâm ngay chính thì họ vẫn được hưởng lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là “Người ngoại họ cứ sống phây phây không cần phải trở lại để theo Chúa rồi cũng được cứu rỗi” như có người đã  nêu lên. Hội Thánh có bổn phận và có quyền thiêng thánh rao giảng Tin Mừng cho mọi người để đem đến cho con người những phương thế hữu hiệu để đạt tới ơn cứu rỗi.

Thực vậy, thường con người bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối, khiến họ phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21 và 25); hoặc vì họ sống chết như không có Thiên Chúa trên đời này, nên liều mình rơi vào sự thất vọng tột độ. Vì hằng quan tâm làm vinh danh Thiên Chúa, và cứu rỗi tất cả những người ấy và hằng nhớ lời Chúa truyền: "Hãy rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật" (Mc 16,15), nên Giáo Hội tận tâm lo lắng và cổ võ việc truyền giáo ( LG 16).

Những người không thuộc về Hội Thánh hữu hình ở trần gian phải đối diện với bao nhiêu là cám dỗ, thử thách và khó khăn mà nếu thiếu những phương thế thiêng liêng trong Hội Thánh là ân sủng, bí tích, Lời Chúa, kinh nguyện, hiệp thông, nâng đỡ cộng đoàn …thì họ có dễ dàng vượt qua những khó khăn ấy để sống đời chính trực và chu toàn ý Chúa theo sự hướng dẫn của lương tâm không ? Đứng trước những thử thách ấy thì việc truyền giáo là việc làm cần thiết cho những ai chưa biết Đức Kitô và Hội Thánh để họ được trở nên con cái của Thiên Chúa và được chia sẻ những ơn ích thiêng liêng hầu có được sự bảo đảm cho ơn cứu độ.

 

 

 

CÙNG ĐỌC & SUY GẪM

 

CHIẾC CẦU

 

Trong mấy ngày qua báo chí Việt Nam không ngừng đưa tin về vụ lấy cắp tuyến cáp quang dưới lòng biển khiến cho hệ thống viễn thông của Việt Nam có thể bị tắc nghẽn, và Việt Nam có thể bị cắt đứt liên lạc với thế giới. Chuyện Việt Nam có lâm vào tình trạng ốc đảo cô lập với thế giới hay không xem ra còn quá xa lạ và xa vời với rất nhiều người Việt Nam. Có những chuyện gần gũi đáng quan tâm hơn, chẳng hạn như chuyện những chiếc cầu xây mãi không xong. Đó là tựa đề  của một bài viết đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ấn bản điện tử số ra cách đây hai hôm.

 

Báo này loan tin rằng mặc dầu UBND thành phố đã nhiều lần chỉ đạo giải quyết vướng mắc và đẩy nhanh việc xây cất nhưng cho đến nay việc thi công cầu Hoàng Hoa Thám và cầu Nguyễn Văn Cừ vẫn đang bế tắc và không biết đbao giờ mới xong. Cầu Hoàng Hoa Thám hay còn gọi là cầu Bông Hai dài 103 thước bắc ngang qua kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè  nối dài với đường Trần Quang Khải. Tổng kinh phí được duyệt là 19 tỷ đồng bao gồm nguồn kinh phí xây dựng và chi phí đền bù giải toả. Theo kế hoạch cầu sẽ được hoàn thành sau 16 tháng, thế nhưng tính đến nay đã 9 năm trôi qua công trình chỉ là ba trục cầu dở dang mốc meo trọ trụi giữa lòng kênh. Được khởi công từ tháng 9 năm 1998, thế nhưng một năm sau công trình cầu Hoàng Hoa Thám đã gặp phải hàng loạt sự cố phát sinh như thiếu đường nhân sinh bảo đảm hành lang an toàn cầu, cầu quá thấp, thiếu quỹ tái định cư cho các hô bị giải toả. Trong quá trình thi công, 6 cộc khoan nhồi trụ bị phát hiện có chất lương bê tông không đồng nhất, cường độ bê tông thấp hơn so với thiết kế.

 

Số phận của cầu Nguyễn Văn Cừ xem ra cũng bi đát không kém. Cầu này nối liền các quận 1, 4, 5, 8. Đây là một trong những dự án giao thông trọng điểm của thành phố. UBND đã qyết định đầu tư vào năm 2000 nhưng phải ba năm sau mới khởi công. Trước khi khởi công dự án này cũng đã ba lần điều chỉnh khiến cho kinh phí đầu tư tăng từ 240 tỷ đồng lên đến 371 tỷ đồng. Sau khi khởi công được một năm dự án này tiết tục được điều chỉnh thiết kế và lần này tổng đầu tư lên đến 535 tỷ đồng. Cũng như số phận của cầu Hoàng Hoa Thám, cầu Nguyễn Văn Cừ cũng phải nằm chờ mãi trong dự án.

 

Chiếc cầu nào cũng mang một ý nghĩa thi vi và tượng trưng cao độ trong tâm hồn con người. Dù là cầu khỉ, cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi hay hiện đại như cầu Bắc Mỹ Thuận, chiếc cầu nào cũng gợi lên trong tâm hồn chúng ta hình ảnh của sự nối kết và gặp gỡ giữa người với người. Đi qua một chiếc cầu không chỉ là đến một nơi nào đó mà là đến với người khác và dĩ nhiên để có thể bắc một chiếc cầu hay đi qua một chiếc cầu, con người cần phải vượt qua một khoảng cách nào đó. Trong các thứ khoảng cách, khoảng cách trong tâm hồn là điều khó vượt qua nhất. Có những cây cầu xây mãi không xong là bởi còn có quá nhiều khoảng cách trong tâm hồn con người. Cụ thể vẫn là khoảng cách do tham lam, ích kỷ, hận thù tạo ta. Để trở thành chiếc cầu nối liền thiên đàng với trần gian, liên kết Thiên Chúa với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xoá bỏ mọi khoảng cách. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, Thánh Phaolô đã gọi sự xoá bỏ khoảng cách ấy là hành động trút bỏ. Ngôi Hai Thiên Chúa đã trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa để mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.  Trong suốt cuộc sống dương thế, Chúa Giêsu đã xoá bỏ mọi khoảng cách khi  ngồi đồng bàn với những người bị đẩy ra bên lề xã hội, những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Ngài đi đến tận cùng sự xoá bỏ khoảng cách ấy khi tự đồng hoá với mỗi một con người là những kẻ hèn mọn yếu kém nhất trong xã hội. Ngài tuyên bố chính xuyên qua sự phục vụ và yêu thương dành cho những con người đó, con người mới có thể gặp gỡ chính Ngài. Tựu chung đó là thể hiện tột cùng của tình yêu, vì yêu thương nhân loại Thiên Chúa đã trút bỏ moi vinh quang. Để bắc một chiếc cầu, để đi qua một chiếc cầu, để đến với người khác, con người cũng phải trút bỏ bao nhiêu vướng bận trong tâm hồn.

 

Lạy Chúa xin cho chúng con biết trút bỏ mọi của cải bất chính và vướng bận trong tâm hồn để đến với người khác và qua người khác gặp gỡ với chính Chúa.

 

Mai Hương

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

LIÊN HỆ CHA MẸ & CON CÁI

 “CÓ NUÔI CON MỚI BIẾT LÒNG CHA MẸ”

 

 

Mối tình lớn nhất đầu đời của bạn là gì? Nhiều người sẽ không ngần ngại trả lời: “Đó là tình yêu đối với cha mẹ”. Trong thời thơ ấu, chúng ta yêu mến cha mẹ với một tình yêu vô điều kiện. Ơ tuổi thơ, chúng ta thấy cha mẹ là những mẫu người hoàn hảo. Những người hùng đã sinh thành nên chúng ta, đã cho chúng ta sự yên vui, đầm ấm. Rồi cùng với thời gian, mối liên hệ dần trở nên phức tạp. Nhà tâm lý Maryse Vaillant cho biết: “Có được mối liên hệ trưởng thành với cha mẹ là một trong những điều khó khăn nhất trong cuộc đời”. Do đó, chúng ta không lấy gì làm lạ khi chúng ta cố tìm cách rời xa cha mẹ trong một thời gian dài.

 

Quá trình dài sáu bảy chục năm cuộc đời có thể chia làm ba giai đoạn. Hai mươi năm đầu, chúng ta phấn đấu để sống độc lập đối với cha mẹ như lời Kinh Thánh: “Con người bỏ cha mẹ và gắn bó với vợ mình, họ trở nên một xương một thịt” (St 2,24). Khi đã bốn mươi tuổi, người ta nhìn cha mẹ với con mắt thông cảm hơn. Và khi đã sáu mươi tuổi, cha mẹ ta tám mươi, chúng ta thấy cần phải săn sóc các ngài.

 

Tuổi hai mươi đi tìm tự do

 

Cô Lê, 32 tuổi, chuyên viên thiết kế mẫu vải kể: “Hồi 20 tuổi, tôi chống đối cha mẹ kịch liệt. Cái gì tôi cũng chống, từ quan điểm chính trị đến cách ăn mặc, việc học hành. Bạn bè tôi đều là những người có tính cách giáo dục trái hẳn với những điều tôi nhận được từ cha mẹ. Quan hệ gia đình rất căng thẳng. May mắn thay, tôi đậu đại học, trường tôi học lại cách nhà trăm cây số. Thế là tôi khăn gói giã từ cha mẹ. Càng ở xa tôi càng nhận ra rằng năng khiếu của tôi là vẽ, là làm thiết kế thời trang chớ không phải làm luật sư như ý bố mẹ. Bây giờ tôi sống hạnh phúc với nghề thiết kế”.

 

Dĩ nhiên không nên mang mặc cảm tội lỗi khi mình cảm thấy tiếng gọi hứng khởi của nghệ thuật nó kéo mình xa gia đình. Phải nghe theo tiếng gọi ấy để thể hiện tài năng một người trẻ, một mình đối diện với cuộc đời. Nhận ra rằng cha mẹ không còn là mẫu người lý tưởng của mình hồi thơ ấu cũng là một cách nhìn nhận của một người đã khôn lớn.

 

Trong thực tế, nhiều thanh niên nam nữ đã thành công tài tình trong việc bơi giữa hai dòng nước. Thống kê xã hội cho biết hiện nay có 50% thanh niên 22 tuổi rời bỏ gia đình nhưng vẫn giữ liên lạc mật thiết với cha mẹ. Người phi hành gia bước ra không gian bên ngoài vũ trụ vẫn được nối kết với con tàu bằng một sợi dây, một thứ “cuống rún chưa lìa” mang lại an toàn. Con cái xa cha mẹ cũng cần có sự hỗ trợ của cha mẹ để có thể sống độc lập.

 

Tuổi bốn mươi thông cảm hơn với cha mẹ

 

Đi được nửa đường đời, chúng ta có khuynh hướng xích lại gần với những người mà chúng ta đã đi xa ở tuổi hai mươi. Anh Kiết, 42 tuổi, có 2 con 12 và 14 tuổi, làm nghề nuôi ong, kể:

 

“Lần đầu tiên khi đứa con lớn của tôi nói tôi cho nó xuống xe cách trường học nửa cây số để khỏi bị chê là “một gả vô tích sự” tôi cảm thấy đau nhói ở tim! Lúc đó tôi mới nhớ lại chuyện ngày xưa, bằng tuổi nó, tôi cũng đã xử sự cứng cỏi với bố tôi như thế. Bỗng dưng tôi muốn gặp bố, để nghe bố kể bố đã khổ sở với tôi như thế nào khi tôi ở tuổi dở dở ương ương ấy”.

 

Đúng các cụ ngày xưa nói chẳng bỏ đi câu nào: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ”. Khi trở thành cha mẹ, người ta mới có thể hiểu bố mẹ từ bên trong nội tâm mình. Đối diện với những khó khăn trong việc dạy dỗ con cái, người ta mới hiểu rằng mình cũng chẳng hơn gì bố mẹ ngày xưa mà mình cứ hay phê bình chỉ trích các cụ. Y thức về mình như vậy khiến người ta khiêm tốn hơn, thông cảm với cha mẹ hơn.

 

Đôi khi trong quá trình gắn bó trở lại với cha mẹ, ngoài cơ hội hiểu được lòng cha mẹ, người ta còn hiểu được chính mình. Cô Michèle, một bà mẹ người Pháp kể: “Khi con trai tôi 9 tuổi, nhờ tôi đăng ký cho nó đi học giáo lý, tôi bàng hoàng cả người. Ngày xưa, chính tôi từ chối không muốn được giáo dục về đạo. Tôi cảm thấy rõ ràng mình có trách nhiệm trong việc đánh mất đức tin. Hôm nay, hơn bốn mươi năm sau nhìn lại, tôi mới thấy có rất nhiều giá trị cha mẹ truyền thụ mà tôi muốn trân trọng gìn giữ. Vậy tại sao tôi không coi tôn giáo cha mẹ như một di sản quý?”

 

Nhà tâm lý Maryse Vaillant giải thích: “Bốn mươi tuổi thường là dịp để người ta tổng kết cuộc sống. Ơ tuổi này, người ta có được cái nhìn sáng suốt hơn về cha mẹ và chấp nhận các ngài trọn vẹn. Chấp nhận di sản tinh thần các ngài để lại cũng giúp ta tìm được những câu trả lời cho những điều ta thắc mắc về cuộc sống, về cái chết.

 

Việc hòa giải những mối xung đột với cha mẹ mang lại nhiều ích lợi. Nhà xã hội học Martine Segalen đưa ra nhận xét: “Giữa các cô con gái và các bà mẹ thường có một mối liên đới rất chặt chẽ. Các bà mẹ thì luôn sẵn sàng ra tay giúp đở để con gái các bà thành công trong cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống gia đình.

 

 60 tuổi, người ta chở che cha mẹ

 

Nhiều người coi tuổi 60 là tuổi chứa chan hạnh phúc. Người ta về hưu, có thì giờ chăm sóc con cháu, và cảm thấy mình trẻ lại. Nhưng ta quên một điều là mẹ cha ta đã quá già rồi. Cha mẹ cần được con cái chăm sóc và chở che. Nhưng chuyện đời nhiều khi éo le. Có những người vào tuổi này lại tỏ lòng oán cha mẹ và lẩn thẩn nhớ lại ngày xưa có lúc cha mẹ không yêu thương mình. Đó là thời gian rất khó khăn. Muốn sống hòa hiếu với cha mẹ già yếu, người ta rất cần nhiều lòng từ bi hỉ xả, kể cả lòng tha thứ.

 

Nhà tâm lý Maryse Vaillant: “Đừng mong cha mẹ thay đổi. Hãy nhìn các thói tật của các ngài với lòng âu yếm, đó là cách trở thành người con lớn tuổi của cha mẹ già”. Như vậy, tưởng có thể tạo nên hạnh phúc cho chính mình và cho cha mẹ lúc tuổi đời xế bóng.

 

 

HUỲNH HAY

 

ĐỌC SÁCH

 

Cao nguyên có gì lạ

Thằng bé liến thoắng vô cùng, nó nói không kịp thở. Nhưng có lẽ vì cái liến thoắng của nó mà làm cho đoạn đường hơn năm cây số dẫn vào buôn làng của người dân tộc ngắn đi. Mọi người và tặng vật đã được chuyển vào bằng xe thồ, chỉ riêng ba đứa Việt Kiều chúng tôi quyết định đi bằng chính đôi chân của mình. Cái nắng trưa tháng 6 oi bức làm sao, lại đi ngược dốc, cộng với cái quả tim yếu đuối của tôi làm cho tôi bước đi từng bước nặng nhọc. Cũng may là tôi đi tay không, chứ không phải vác Thánh Giá như Chúa Giêsu ngày xưa.

Từ đằng xa tôi đã nhìn thấy rất nhiều người dân tộc tập trung ở một cái sân rộng lớn (sau này tôi mới biết đó là sân nhà của vị Già Làng.) Thằng bé dẫn tôi vào giữa vòng tròn trao cho vị già làng, vị già làng nói một câu bằng tiếng Thượng, làm mọi người cười thật to, riêng tôi thì không hiểu gì, chỉ biết là cụ đang nói gì đó về tôi và hai thằng bạn Việt Kiều của tôi! Cũng may, sau câu nói tiếng Thượng đó, già làng và mọi người nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, tuy có hơi lơ lớ, nhưng dù sao cũng dễ nghe hơn tiếng Thượng rất nhiều.

Chúng tôi vào nhà rửa mặt mũi và ăn trưa. Bữa ăn thật là thịnh soạn, ở Mỹ dù có cả triệu dollar cũng không có những món chúng tôi đang được thưởng thức: toàn là thịt rừng. Sau bữa ăn trưa chúng tôi phát quà cho mỗi gia đình trong làng và đặc biệt tôi còn phát thêm 4 phần học bổng toàn năm, mỗi phần trị giá 4 trăm dollars cho bốn bạn trẻ trong làng đang theo học đại học, do 4 chủ tiệm nail gởi tôi trao tặng. Sau bữa cơm trưa mọi người chuẩn bị ra xe để đi lên thị trấn chơi! Riêng tôi quyết định ở lại với bản làng và hai ngày sau mấy đứa bạn sẽ quay trở về để đón tôi.

Tối đó tôi được nằm ngủ kế già làng, dĩ nhiên không phải là chung giường mà là mỗi người một cái Võng. Muỗi ơi là muỗi, nó vo ve, nó chích, toàn thân tôi nổi cục và tôi thì nổi cáu. Cái chai thuốc muỗi tôi đem từ Mỹ về thật vô dụng, hay có lẽ muỗi Việt Nam và muỗi Mỹ khác nhau chăng?

Hai ngày kế tiếp, buổi sáng vì trời còn mát nên tôi theo các thanh niên thiếu nữ lên nương, đến trưa thì họ cho tôi về vì trời nóng quá họ sợ tôi chịu không nổi. Nhưng trước khi về họ cho tôi hưởng cái thú mát rượi khi được dầm mình vào dòng suối trong lành. Buổi chiều thì tôi phụ các bà nấu nướng là để học cách nấu ăn của người dân tộc. Việc này tôi phải năn nỉ mãi họ mới cho tôi giúp, vì truyền thống của người dân tộc cấm kị các phái nam vào bếp. Buổi tối thì mọi người quay quần bên cái đèn dầu ở nhà Già Làng nghe tôi kể chuyện bên Hoa Kỳ! Ai cũng thích nghe. Có chuyện họ bắt tôi phải kể đi kể lại, hay phải giải thích đến hai hay ba lần vì .. nó lạ quá, không tin được. Ví dụ như tôi nói bên Mỹ chúng tôi có cái máy (Microwave) dùng làm nóng đồ ăn nên rất tiện không phải nổi lửa lên. Một bà cụ giơ tay lên nói: "Ông Tầy ơi! Không có lửa thì làm sao mà nóng được!"

Tối hôm đó, cũng như hai hôm trước, mọi người tụ họp sau buổi cơm chiều nghe tôi kể chuyện. Nhưng bỗng nhiên Già Làng, nói bằng tiếng dân tộc, gọi 3 c

ô gái bước vào trong mặt có vẻ giận giữ và la mắng 3 cô điều gì đó, tôi chẳng hiểu gì nên quay sang hỏi người ngồi bên cạnh. Anh ta giải thích là Già Làng đang la ba cô gái vì họ đã dám "dụ dỗ" tôi đi ra ngoài buôn làng vào buổi chiều hôm đó! Tôi vội vàng lên tiếng bằng tiếng Việt giải thích với Già Làng và mọi người là họ không có dụ dỗ tôi đi ra ngoài buôn làng mà chính tôi đã nhờ nhọ dẫn ra chợ làng để mua một số đồ làm kỷ niệm. Nghe tôi giải thích, Già Làng vỗ đùi cái đét một cái và cười nói: "Ong Tầy cũng hiếu tiếng Tượng hả!" (có nghĩa là: Ong thầy cũng hiểu tiếng Thượng hả?"

Đêm nay là đêm cuối cùng nên tôi ngồi hàn huyên với họ cho đến hơn hai giờ sáng. Vì Già Làng và một số người trong làng trở lại Công Giáo từ đạo Tin Lành nên tôi hỏi: "Già ơi, Già có thể cho con biết sự khác nhau giữa đạo Tin Lành và đạo Công Giáo không?" Già làng trả lời: "Khác là cái Tằng Tin Lành nó tới nhà mình mỗi chúa nhật, còn cái thằng ông Cha Công Giáo, nó ở nhà nó, và mình phải tới nhà của Tằng ông Cha!" Tôi nghe đến đây vừa buồn cười vừa thương họ vì họ thật đơn sơ!

Sáng hôm sau, những đứa bạn tôi từ tỉnh trở về đón tôi. Tôi từ giã Già Làng và mọi người, hứa sẽ trở lại khi tôi có thể! Trên đường về, bạn bè tôi kể cho tôi nghe là tha`nh pho^' Kontum đẹp nhu thế nào, chúng nó đã ăn những gì, đi chơi những chỗ nào. Riêng tôi, hình ảnh ngôi làng giữa triền núi, và mọi người sống trong ngôi làng đó là hi`nh a?nh de.p nha^'t, la` thần dược giúp tôi mạnh dạn hơn trên đường tiến tới bàn tiệc

Thánh.

Lời Nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã đón nhận những người thật đơn sơ làm con của Chúa. Xin Cho chúng con cũng biết sống đơn sơ, từ trong lời nói, việc làm đến suy nghĩ. Xin cho mỗi người chúng con là một khí cụ rao giảng tin mừng, để danh Chúa được cả sáng, nước chúa được trị đến, từ trong thành thị cho đến làng quê, và ngay cả những người sống trên núi đồi.

Linh Mục Martino Nguyễn Bá Thông